Tiệm Tạp Hóa Nhỏ Bên Quốc Tử Giám

Chương 4: Chè Hạnh Nhân

92@-

Không biết món chè hạnh nhân ở đây có giống với món chè hạnh nhân nổi tiếng ở Khai Phong đời sau không nhỉ?


Xem phản ứng của Trình Nương Tử lúc nãy, có lẽ người trong xóm này cũng không hiểu rõ gì về nàng, ngoài ấn tượng là một người rụt rè ít nói, ngại giao tiếp với người khác. Nếu không phải vậy, e rằng lời giải thích khi nãy của Diêu Như Ý khó mà xuôi tai được.


“Vịt quay của tiệm Thẩm Ký thơm thật, đứng xa thế này mà còn ngửi thấy mùi.” - Trình Nương Tử thấy nàng ngoái đầu nhìn về phía tiệm Thẩm Ký, tưởng nàng thèm, bèn cười nói chuyện phiếm: “Gia gia muội ngày trước cũng mê món bánh canh và vịt quay của nhà họ lắm. Có một thời gian ăn liền năm bữa một ngày ở đấy, còn béo lên hơn mười cân. Nhưng cũng may nhờ có mấy cân mỡ đó, lần gia gia muội bị đột quỵ, hàng xóm ai cũng sang thăm, ôi chao, khi đó gia gia mê man nằm đấy, chỉ có thể dùng đũa cạy miệng để đổ cháo gạo loãng vào. Bệnh một trận xong gầy rộc như que củi. Thầy lang nhà họ Triệu cũng nói, nếu là người gầy thì chắc đã không qua khỏi. Gia gia muội nhặt lại được một mạng, thật đúng là nhờ vịt quay nhà họ Thẩm đấy!”


Diêu Như Ý say sưa lắng nghe.


Thật ra… nàng cũng không định “nhận mặt” với Thẩm nương tử – người đồng cảnh ngộ xuyên không như mình.


Có lẽ vì từng sống vất vưởng ở nhà họ hàng như một món đồ thừa, nàng rất sợ làm phiền người khác. Dù giờ đây xuyên vào sách là một kiểu tái sinh, nàng vẫn chẳng có chí lớn gì, chỉ mong được sống tiếp.


Có ăn có uống, sống khỏe mạnh là nàng đã cảm tạ trời đất lắm rồi.


Vả lại, tự dưng tìm tới người ta cũng quá đường đột. Nhỡ đâu người ta không muốn chia sẻ bí mật lớn nhất đời mình thì sao? Có lẽ không quấy rầy chính là sự dịu dàng lớn nhất.


Hai người vừa đi vừa trò chuyện, rẽ vào phố tiểu thương, nơi này chính là “khu chợ đầu mối” của cả Biện Kinh, là nơi tụ hội của các thợ thủ nàng ng. Trong tiệm mây tre, mẹt rổ chất thành núi; lò rèn b*n r* tia lửa; đất sét và gỗ được bày đầy trước cửa tiệm gốm; trước tiệm trâm cài, rất nhiều nàng  nương chen nhau chọn mấy mẫu mới nhập từ phương Nam. Diêu Như Ý cố gắng kiềm chế sự tò mò để không ngoái đầu nhìn khắp nơi.


“Như Ý, muội không phải định mua đồ gốm sao? Phía trước chính là tiệm đấy, đi xem có món nào vừa ý không.” - Trình Nương Tử rất chu đáo, dẫn nàng vào một tiệm gốm. Diêu Như Ý đi một vòng, chọn hai chiếc vò lớn bằng sứ men xanh, miệng rộng, đáy sâu, có nắp, hai bên có quai xách, còn được vẽ hoa chim, mỗi chiếc bốn mươi văn.


Trình Nương Tử sốt sắng mặc cả giúp, cuối cùng được giá ba mươi văn một chiếc, còn tặng thêm hai cái muôi cán dài.


Đi tiếp, Diêu Như Ý thấy một cái tên quen thuộc: tấm biển của một tiệm ghi “Lá trà Mai Tam Nương”, nàng  lập tức dừng chân ngó vào, quả nhiên thấy trên quầy bày hồng trà mới rang. Nàng nhớ trong sách có nhắc đến chuyện nữ chính hùn vốn cùng Mai Tam Nương mở quán trà, phát triển dòng hồng trà lên men, giờ quả nhiên đã làm được rồi.


Quả thật, nàng đến được thế giới này là nhờ phúc khí của nữ chính.


Nàng cảm kích bước đi trên con đường người đi trước đã mở, vui vẻ bước vào tiệm, nhờ tiểu nhị cân cho hai cân “vụn trà” rẻ nhất. Tuy đời sau từ “vụn trà” thường chỉ cặn của trà nhài, nhưng thật ra không giới hạn loại nào, bất kể là trà gì, trong quá trình sàng lọc cũng sẽ sinh ra vụn.


Người Tống thậm chí còn cố ý nghiền lá trà thành “vụn trà”, nén thành bánh để dùng trong nghệ thuật điểm trà, đấu trà. Tất nhiên loại này phải chọn nguyên liệu hảo hạng, chứ không phải loại vụn rẻ tiền mà Diêu Như Ý mua.


Nhưng nàng không kén chọn, mua trà vụn là để nấu món trứng trà ngũ vị.


Trứng trà không phải món lạ, thời này cũng có món tương tự. Nhưng công thức của Diêu Như Ý là bí quyết độc nhất vô nhị của bà ngoại, khác hẳn với người khác. Trước đây, trong tiệm tạp hóa nhỏ của hai bà cháu, trứng trà buổi sáng luôn bán hết sạch. Học sinh nào trước khi học sớm cũng mua một quả ăn kèm bữa sáng, thơm nức.



Trứng trà kiểu này rất hợp để học sinh mang vào lớp ăn, vừa thơm vừa đậm vị, lại dễ giấu.


Gói trà xong, hai người đi vòng ra sau phố tiểu thương đến khu chợ nhỏ mua rau. Trình Nương Tử quen thuộc từng ngóc ngách nơi này, tiệm nào bán hàng ngon, tiệm nào bán mắc, tiệm nào vợ chồng hay cãi nhau, tỷ ấy đều biết tường tận.


Diêu Như Ý nhờ tỷ ấy giới thiệu, cũng đẩy xe chọn được hai quả cà tím tròn và một bó đậu đũa ở một sạp rau uy tín, còn mua thêm nửa đấu gạo tẻ.


Tiếp đó ghé tiệm tạp hóa. Trình Nương Tử cố ý dẫn nàng đến một tiệm nhỏ ít người chú ý, quả nhiên rẻ hơn nhiều so với tiệm lớn. Nàng  mua một đống gia vị như lá thơm, quế, hồi; lại mua hai vò rượu mạch, hai cân đường phèn, hai cân xì dầu, mười cái bánh nướng, hai xấp giấy dầu.


Vì mua nhiều, Trình Nương Tử còn chủ động xin tiệm giảm giá, họ còn tặng thêm một hũ dưa muối. Bà chủ tiệm là một người phụ nữ mập dễ thương, luôn tươi cười, không dây dưa, vui vẻ đồng ý.


Rời khỏi tiệm tạp hóa, Diêu Như Ý thực lòng cảm ơn Trình Nương Tử, đứng lại hành lễ nói: “Tẩu tẩu, chuyến này thật nhờ có tẩu.”


Trình Nương Tử thấy nàng gương mặt còn xanh xao mang bệnh, gầy đến nỗi má hóp lại, vốn là một cô nương ít nói sợ sệt, giờ phải tự mình gánh vác cuộc sống, trong lòng không khỏi xót xa, lại càng thương cảm: “Có gì đáng nói? Về sau nếu cần giúp đỡ gì, đừng ngại ngùng, cứ mở miệng nói với tỷ.”


Diêu Như Ý nở nụ cười, lúm đồng tiền hiện ra hai bên má.


Trình Nương Tử lại thấy mềm lòng, dịu dàng khuyên nhủ: “Muội xem, mặt tròn mắt hạnh như muội vốn là rất dễ thương đấy! Về sau đừng cứ cúi đầu mãi, cứ ngẩng cao đầu lên, đừng bận tâm mấy lời đàm tiếu. Nghe lời tẩu tẩu đi, thời gian trôi qua, mọi chuyện sẽ qua thôi, ai cũng sẽ yêu quý muội cả.”


“Muội nghe tẩu tẩu hết.” - Diêu Như Ý vẫn nói nhỏ nhẹ, nhưng cũng nhân cơ hội bày tỏ thái độ.


Trình Nương Tử cười rồi khoác tay nàng : “Mua đủ rồi chứ? Đi, đến quán trà nghỉ chân uống chút trà. Gần đây có một quán nhỏ, ông lão què bán trà ở đó nấu trà ngon lắm.”


Diêu Như Ý cũng khát rồi, bèn gật đầu.


Quán trà mà Trình Nương Tử nói thật sự rất gần, hai người đi vài bước đã đến một quán nhỏ có mái che cố định. Quán được lợp mái rơm, dùng dây thừng và đá đè lên mái để tránh gió thổi bay, phía trên mái che xiêu xiêu vẹo vẹo treo một tấm vải bố thô viết chữ “Chè”.


Tới nơi, Trình Nương Tử đã nhanh chóng lấy tiền ra, cười hỏi: “Muội muốn uống loại nào? ‘Chè đậu mặn’ tốt cho tiêu hóa, ‘chè tía tô’ trị ho, tốt cho cổ họng. Chỗ này còn có chè hạnh nhân và chè táo đỏ cũng rất ổn.”


“Không, không, muội phải là người trả chứ. Tẩu tẩu đã giúp muội nhiều việc như vậy rồi, sao còn để tẩu phải tốn tiền?” - Diêu Như Ý vội ngăn tẩu tử lại.


“Sao lại thế được? Muội vừa khỏi bệnh, ta mời muội một bát chè mừng là chuyện nên làm mà. Chỉ hai văn tiền, đâu có đáng gì?” - Trình Nương Tử cương quyết không chịu, khăng khăng trả tiền trước. Quán trà này có hơn mười loại chè và canh, dù là loại nào giá cũng như nhau: một nồi đầy hai mươi văn, một bát nhỏ hai văn, hai bát nhỏ ba văn. Trình Nương Tử sợ nàng  giành trả tiền nên chọn nhanh luôn hai phần nhỏ, vừa ngăn tay nàng lại, vừa nhanh chóng thanh toán.


Diêu Như Ý đành chịu thua, cười nói: “Lần sau nhất định để muội mời nhé.”


Trình Nương Tử nhẹ nhàng vỗ tay nàng, cười: “Thôi đi, chúng ta là hàng xóm, về sau chẳng thiếu cơ hội để muội đãi khách đâu. Khách sáo làm chi. Nào, lại đây xem thích loại nào? Ta thích nhất là chè táo đỏ, chan một muỗng mật lên, ngọt lịm luôn.”



Trình Nương Tử tuy đã trung niên, tướng mạo không phải kiểu xinh đẹp nghiêng nước nghiêng thành, nhưng lại rất dễ nhìn, nét mặt dịu dàng, thanh tú, sống mũi cao và thẳng khiến khí chất thêm phần cứng cỏi. Cách tẩu tử đối đãi người khác vừa nhẹ nhàng vừa chu đáo, toát lên một sự ấm áp rất riêng.


Diêu Như Ý chỉ mới tiếp xúc nửa ngày đã thấy rất quý mến tẩu.


Nghe tẩu nói vậy, Diêu Như Ý ngẫm nghĩ, số tiền nàng dùng để mua đồ là phần gia sản mà gia gia cực khổ tích cóp, sau này còn phải trông vào đó mà sống. Nếu giờ mang ra chi trả cho việc mời chè, quả thật không ổn. Sau này khi kiếm được tiền rồi, nàng nhất định sẽ mời Trình Nương Tử đi chơi, uống trà thật đàng hoàng.


Nghĩ vậy, nàng bắt đầu chọn chè, rồi chỉ vào chè hạnh nhân.


Có một năm, nàng từng cùng bà ngoại đi tới thủ đô chữa bệnh. Trong phòng bệnh có một chú người Hà Nam nằm cùng phòng, bệnh còn nặng hơn nàng nhưng lại rất lạc quan, còn biết đan len rất khéo.


Chú ấy luôn cười gọi nàng  là “bé con”, khi đó nàng còn nhỏ, vừa nghỉ học, đầu vừa bị cạo trọc vì chữa bệnh, đang khóc sướt mướt thì chú ấy đan cho nàng  một chiếc mũ len có quả bông ở trên, viền mũ còn có hoa tuyết dệt bằng len trắng, rất đẹp.


Chú ấy thường kể nàng nghe về món ngon quê nhà ở Hà Nam, món gì cũng ngon nhưng nhắc đến nhiều nhất là món chè hạnh nhân đặc sản Khai Phong. Chú nói món ấy dùng ấm đồng rồng phượng đun sôi nước rồi pha. Hạnh nhân phải dùng loại ngọt từ Nam Dương, ngâm mềm bằng nước giếng từ đêm trước, sau đó đem xay thành sữa bằng cối đá. Lọc bỏ bã, nước cốt thu được phải trắng ngà, sau đó đun với bột nếp thành dạng sền sệt, thêm vào lạc rang, táo đỏ, mè, hạt điều, óc chó, nho khô… Đem ăn thì ngay cả lát táo đỏ cũng giòn rụm, mùa hè thì ăn lạnh, mùa đông thì ăn nóng, ngọt mà không ngấy, thơm nức.


Nghe kể mà Diêu Như Ý ch** n**c miếng. Không biết món trà hạnh nhân nơi đây có giống với món mà chú ấy miêu tả không?


Nàng kiễng chân lên nhìn.


Kiếp trước nàng không cao, xương nhỏ, thân thể hiện tại cũng giống vậy. Sáng nay lúc soi gương, nàng đã phát hiện mình giống hệt nhân vật “Diêu Như Ý” trong sách, chỉ là giờ quá gầy, sắc mặt kém nên không đẹp bằng nguyên bản.


Quán trà của ông lão què đặt trên hai bậc thềm. Diêu Như Ý phải dùng cả hai tay bám vào thành quán, rướn cổ mới thấy được cách ông ấy nấu trà.


Nhưng thật ra cũng chẳng có gì để xem, phần trà đã nấu sẵn từ trước, luôn được giữ nóng trên bếp than, chỉ có nguyên liệu ăn kèm là cho vào tại chỗ.


Phần ăn kèm ông lão thêm vào khá giống như lời chú bệnh nhân kể, chỉ là phần nước chè hơi loãng, dùng muôi múc lên sẽ thấy kéo thành sợi mảnh, không sánh đặc như món nàng từng nghe.


Dù vậy, Diêu Như Ý vẫn ăn một cách rất trân trọng.


Từ khi đổ bệnh, nàng đã rất nhiều năm không được ăn vặt, không được uống trà sữa, không được ăn cơm đúng nghĩa, thứ duy nhất được "ăn" là hàng trăm vị thuốc đắng.


Sau đó còn phải nuôi sống sinh mệnh bằng ống truyền.


Được ăn cơm, bất kể món gì, với nàng đều là niềm hạnh phúc to lớn.


Trình Nương Tử nói đúng thật, chè nơi này rất ngon. Chè hạnh nhân đựng trong bát đất thô, màu trắng sữa hơi ánh vàng, trên mặt rắc đầy nho khô, sơn tra, óc chó băm vụn. Nhấp một ngụm, vị đắng chát đặc trưng của hạnh nhân đã bị đường khử sạch, còn lại chỉ có ngọt bùi mềm mượt. Thứ ấm nóng đặc vừa phải ấy theo cổ họng trượt xuống dạ dày, như thấm vào từng tạng phủ.



Nhất là hôm nay trời vô cùng đẹp, nắng tươi, mây trắng dày. Hai người đứng bên cạnh chiếc xe hai bánh chất đầy rau, gia vị, đồ đạc, tay ôm bát chè, gió nhẹ thổi qua, mây trắng trôi lững lờ trên đầu, bóng mờ rơi xuống người họ như tơ lụa phủ nhẹ, khoảnh khắc này đúng là an yên vô cùng.


Diêu Như Ý vừa chậm rãi ăn chè hạnh nhân, vừa nhìn phố xá náo nhiệt phía trước, trong lòng lại lặng lẽ nhớ về phòng bệnh năm xưa. Nàng và chú Hà Nam đã chiến đấu cùng nhau suốt hai tháng, cuối cùng chú ấy ra đi trước. Khi đó nàng buồn vô cùng, chui đầu vào chăn, ôm chiếc mũ len mà khóc nức nở. Bây giờ nghĩ lại, chỉ mong chú ấy khi chết cũng được xuyên đến một thế giới khác, sống những ngày vui vẻ như nàng bây giờ, vì người tốt như chú ấy xứng đáng với điều đó.


Chú ơi, cháu cuối cùng cũng được ăn món chè hạnh nhân mà chú kể rồi.


Thật sự rất ngon, giống y như lời chú nói.


Khi Diêu Như Ý còn đang thẫn thờ, Trình Nương Tử đã đem bát chè đã ăn xong trả lại quán. Nàng vội hoàn hồn, ngửa cổ uống nốt chỗ còn lại trong bát, rồi hai người vừa trò chuyện vừa đẩy xe quay về nhà.


Về đến nơi trời vẫn chưa đến giờ ngọ. Diêu Như Ý bày hết đồ ra sân, mệt đến nỗi phải ngồi phịch xuống ghế gỗ đấm đấm thắt lưng, thân thể nguyên chủ mới khỏi bệnh chưa lâu, làm việc liên tục dễ mệt mỏi.


Nghỉ ngơi một lát, nàng nhẹ nhàng mở cửa phòng ông nội, ló đầu vào xem thử, thấy ông vẫn còn đang ngáy ngủ, liền rón rén trở lại bếp, lấy mấy cái bánh nướng còn thừa buổi sáng lót dạ, rồi bắt tay vào luộc trứng trà.


Trước kia, mỗi ngày bà ngoại đều làm trứng trà để bán, nàng nhìn mãi cũng đã thuộc.


Trước khi luộc, bà ngoại luôn cho bia vào nước luộc trứng. Giờ không có bia, Diêu Như Ý nhớ lại bia vốn cũng là từ lúa mạch lên men, thế là nàng  quyết định dùng loại rượu mạch rẻ nhất ở thời này để thử xem sao.


Luộc bằng rượu là để làm lòng đào.


Lần này nàng  chỉ mua năm mươi quả trứng, cẩn thận rửa sạch từng quả, rồi ngâm vào nước pha rượu, nấu lửa nhỏ chừng một lát, canh khi lòng trắng vừa se lại là vớt ra. Để nguội, sau đó xả qua nước sôi, gõ nhẹ cho vỏ nứt ra như vết rạn trên gốm. Lặp lại vài lần, rồi đem ngâm vào nước trà đen đã pha.


Sau đó, nàng  đổ nước sạch vào nồi nhỏ, bỏ thêm các loại gia vị như lá nguyệt quế, quế chi, hồi hương, thêm ít đường phèn, nước tương, lại cho thêm hai muỗng rượu, nấu sôi rồi đổ hỗn hợp trà và trứng vào. Rút bớt củi lửa, để nồi sôi lăn tăn. Chẳng mấy chốc, hương thơm tỏa ra khắp sân, thơm lừng mê người.


Mẻ trứng trà này, khi bóc lớp vỏ màu nâu sẫm ra, lòng trắng hiện lên những đường vân trà đẹp mắt. Cắn một miếng, lòng trắng dai giòn, còn lòng đỏ bên trong do được ướp với rượu và không luộc quá lâu nên vẫn giữ được màu vàng mềm mịn, không hề bị khô cứng, ăn rất vừa miệng.


Diêu Như Ý nếm thử một quả, nóng đến mức nhảy dựng lên, nhưng trong lòng thì mừng rỡ gật gù, cũng tạm ổn rồi, chỉ là rượu mạch ở thời này không thơm bằng bia thời hiện đại, lòng đào chưa ngấm kỹ lắm, chắc cần để ngâm thêm chút nữa.


Dù vậy, mùi vị cũng ổn rồi, xem như đã có vài phần tay nghề của bà ngoại.


Tắt bếp, nàng  để trứng tiếp tục ngấm trong nồi còn âm ấm.


Lúc này, Diêu gia gia cũng đã bị mùi thơm đánh thức.


Nghe thấy tiếng động, nàng lại vớt ra một quả, hâm nóng một cái bánh nướng, kẹp thêm ít dưa muối rồi đem đến đẩy ông ra sân ngồi phơi nắng chiều.



Lúc này trời bắt đầu dịu nắng, ánh mặt trời sắp lặn, rất thích hợp cho người già thể trạng yếu ra ngoài phơi nắng một lát.


Thực ra Diêu gia gia cũng có thể vịn tường đi vài bước, nhưng hơi động đậy đã th* d*c, nên hàng ngày ông ngồi xe lăn là tiện nhất.


Lúc này đã gần chiều muộn, ánh tà dương nhuộm vàng mọi thứ, bầu trời xanh sẫm dần chuyển sang màu cam rực, đổ bóng loang lổ lên cửa sổ và mặt đất. Diêu Như Ý đứng trong ánh nắng, tính toán thời gian, còn chừng nửa canh giờ nữa Quốc Tử Giám sẽ tan học, nàng có thể đẩy xe ra ngoài bán trứng trà thử xem.


Nhân lúc còn rảnh, nàng tranh thủ chuẩn bị món ăn tối. Sắp xếp cho Diêu gia gia ngồi yên ổn xong, nàng liền ra giếng ngồi chọn đậu đũa.


Diêu gia gia đắp tấm chăn mỏng lên đùi, tay cầm bánh nướng, vừa ăn vừa lóng ngóng bóc vỏ trứng, còn khịt mũi ngửi ngửi: “Trứng này thơm quá, con mua ở đâu thế?”


“Con làm đó ạ.”


Ông Diêu “ồ” một tiếng, rồi liếc thấy nàng  đã nhặt xong đậu, bỏ vào giỏ rau để sang một bên, đang ngồi gọt cà tím, vo gạo, liền nói chuyện phiếm với nàng :


“Hôm nay ăn đậu à?”


“Vâng ạ.”


“Đậu không ngon.”


“Tại nó rẻ.”


“Ta có tiền, con lấy mà mua thịt, đi chặt cái đùi dê về nấu.”


“Có tiền cũng không được tiêu lung tung đâu.”


“Như Ý cũng ăn đậu à? Nó đi chơi đâu rồi?”


“Cũng ăn, đi chơi rồi.”


“Đậu không ngon.”


“Ngon lắm đó, con sẽ nấu chung với cà tím, ngài ăn rồi sẽ biết.” - Diêu Như Ý đổ nước vo gạo vào rãnh thoát nước bên cạnh, lấy khuỷu tay quệt mồ hôi, quay đầu cười nói: “Ngài ăn trứng đi, ăn cho no nhé.”


Diêu gia gia tỏ vẻ tủi thân mà vẫn ngoan ngoãn cúi đầu cắn một miếng: “Trứng cũng chẳng ra gì…”


Chữ “gì” còn chưa kịp thốt ra, đôi mắt già nua đã tròn xoe, ông cúi xuống ăn thêm miếng nữa: “....Cũng ngon đấy!”


Tiệm Tạp Hóa Nhỏ Bên Quốc Tử Giám
Bạn có thể dùng phím mũi tên trái/phải để lùi/sang chương.
Đánh giá:
Truyện Tiệm Tạp Hóa Nhỏ Bên Quốc Tử Giám Truyện Tiệm Tạp Hóa Nhỏ Bên Quốc Tử Giám Story Chương 4: Chè Hạnh Nhân
10.0/10 từ 12 lượt.
loading...