Bờ Biển Ánh Sao - Cô Nương Đừng Khóc
Chương 103
Chương 103: Làng Xa
*
Ngô Thường không ngờ làng Xa lại xa như vậy.
Xa đến như vậy, xa đến tận cùng.
Ngày trước nghe mẹ nói về làng Xa, bà nói nơi đó trên bản đồ cũng chẳng tìm thấy. Cô ngồi lên thuyền, mới biết thế nào là vượt biển ra khơi. Trên thuyền, thời gian lặng lẽ, người trên thuyền hoặc ngái ngủ, hoặc ngẩn ngơ, hoặc nôn ọe. Cả khoang thuyền tràn ngập mùi thức ăn trộn lẫn mùi mồ hôi, mùi nước hoa trên thân thể người ta, thứ mùi đó nhanh chóng lên men. Lạ thật, dường như chỉ mình cô ngửi thấy.
“Mẹ về làng Xa làm gì?” Ngô Thường hỏi Nguyễn Hương Ngọc.
Nguyễn Hương Ngọc nghĩ một chút rồi đáp: “Mẹ cả đời chỉ ngồi thuyền như vậy hai lần, một lần là đi, một lần là… chạy trốn.”
Trong lòng Ngô Thường, con thuyền đi về làng Xa vốn là cũ kỹ, giống như bất cứ lúc nào cũng có thể hỏng giữa biển. Giờ đây cô ngồi trên con thuyền mới tinh, nhìn ra bên ngoài.
Trước khi lên thuyền, Lâm Tại Đường nhắc cô uống thuốc say sóng, cô nói tôi lớn lên bên biển, anh lại kêu tôi uống thuốc say sóng ư? Tôi không uống. Tôi là con gái của biển. Tôi quen thuộc biển cả.
“Vậy em đã từng ra khơi chưa?” Lâm Tại Đường lại hỏi.
“Anh đừng lo. Sóng gió chút xíu này tính là gì?” Ngô Thường nói.
“Gần sáu tiếng ngồi thuyền, xuống bến còn phải đổi sang ca nô nữa.”
“Không lâu đâu.”
Thật lạ, cô là người Hải Châu, lớn lên ở Thiên Khê, vậy mà chưa từng ra biển. Hồi nhỏ, bà ngoại cô luôn kéo cô tránh xa biển sâu, nói nước biển đó biết ăn người. Giờ đây cô lại đang trôi dạt trên mặt biển “ăn người.”
Cô tràn đầy hiếu kỳ với làng Xa.
Mẹ với bà ngoại không mấy khi nhắc tới làng Xa, nhưng Nguyễn Xuân Quế thì có. Bà vừa nhắc đến làng Xa liền nghiến răng nghiến lợi, nguyền rủa làng Xa bị biển nuốt chửng, nói người làng Xa không có kẻ nào ra hồn. Vì vậy sau khi lên thuyền, bà ngồi một góc, đeo kính mát, ngả người ngủ, chẳng hề trò chuyện với nhóm Ngô Thường.
Khởi hành được hai mươi phút, Ngô Thường đã thấy chóng mặt.
Cô tựa đầu vào lưng ghế, nhắm mắt lại. Lúc này cô mới cảm nhận được sự chuyển động của sóng biển, bởi hễ sóng dâng lên, thuyền sẽ chao đảo một cái. Vài phút sau, Ngô Thường đã có thể nhờ độ chao đảo mà đoán được ngọn sóng tới đâu rồi.
“Khó chịu không?” Lâm Tại Đường hỏi cô.
“Cũng ổn.” Cô không muốn mở miệng, trong bụng như sóng cuộn, cơn chóng mặt dồn thẳng l*n đ*nh đầu. Cô không thể mở lời nữa, bởi hễ mở miệng, có lẽ sẽ nôn ra ngay lập tức.
Chân mày của cô nhíu chặt lại, trên trán bắt đầu rịn những giọt mồ hôi li ti.
Lâm Tại Đường liếc nhìn đồng hồ, còn năm tiếng nữa mới qua được. Anh đã uống thuốc, hơn nữa trước đây nhiều lần đi khảo sát hay theo khách ra khơi, nên với chuyến đi thế này anh chẳng có phản ứng gì. Còn Ngô Thường thì không tránh khỏi khổ sở rồi.
Lâm Tại Đường lấy khăn tay lau mồ hôi cho cô, lại tìm miếng dán say tàu xe dán cho cô. Lúc này Ngô Thường không chống cự nữa, cô gần như chẳng còn sức để cử động. Vì say sóng, tay chân cô bắt đầu bủn rủn. Lâm Tại Đường dán miếng thuốc vào sau tai cô, đầu ngón tay mềm mại lướt qua vành tai cô.
Ngô Thường thầm nghĩ: trễ rồi, bây giờ mới dán miếng thuốc thì trễ rồi đúng không? Nhưng cô hoàn toàn không thốt ra được một lời nào.
Đây là lần say sóng nghiêm trọng nhất trong đời Ngô Thường.
Ý thức cô hơi mơ hồ, tim đập nhanh, trong đầu toàn là hình bóng của Nguyễn Hương Ngọc. Cô nghĩ: Mẹ, ngày mẹ đi làng Xa, cũng khó chịu như vậy sao?
Lâm Tại Đường lấy thuốc say sóng nhét vào miệng cô, rồi cắm một ống hút vào chai nước, để cô hút một ngụm nuốt xuống. Ngô Thường mặc kệ anh chăm sóc, sau đó ngả đầu tựa vào vai anh.
Đó là bờ vai quen thuộc với Ngô Thường.
Lâm Tại Đường chợt nhớ đến khoảng thời gian không có khoảng cách giữa họ, lúc tản bộ vào ban đêm, cô thường dựa vào vai anh. Thỉnh thoảng gặp người quen trong xóm, anh lại thấy ngại, bèn siết nhẹ tay cô, nhắc cô đứng cho ngay ngắn một chút. Anh khẽ cúi đầu nhìn gương mặt Ngô Thường, cùng hàng lông mày nhíu chặt vì khó chịu.
Cảm giác có ai đó nhìn sang, anh ngoái đầu lại nhìn về phía góc có Nguyễn Xuân Quế. Bà đang hướng mắt ra ngoài khoang thuyền. Từ vị trí ấy bà không nhìn thấy được họ, lưng ghế cao che mất tầm mắt bà.
Ngô Thường cứ thế dựa vào, sau đó dứt khoát gối đầu lên đùi anh.
Bọn họ khởi hành vào ngày thường, trên thuyền không đông người. Nơi đó vốn cũng ít ai biết tới, chỉ là vài kẻ mê khám phá, chèo thuyền tới tìm ra ngôi làng Xa đã bị thế gian quên lãng hơn mười năm. Trong những bức ảnh chụp lại làng Xa, cảnh tượng đúng như năm xưa Nguyễn Hương Ngọc từng thấy trên mạng: rêu phong khắp nơi, muỗi mòng, sâu bọ, ngôi làng hoang tàn, chẳng một bóng người.
Khi Nguyễn Hương Ngọc lần đầu thấy những tấm ảnh ấy, trong đầu toàn là ký ức tuổi thơ cùng Nguyễn Xuân Quế. Bà từng nhắc với Ngô Thường một hai lần: muốn về làng Xa xem thử.
Trong lòng bà, làng Xa tuy gắn liền với những ký ức chẳng thể ngoảnh lại, nhưng cũng là nơi bà cùng Nguyễn Xuân Quế nương tựa nhau hơn mười năm. Về sau vì nhiều lý do, Nguyễn Hương Ngọc dần hiểu ra, bà và Nguyễn Xuân Quế đã chẳng thể quay lại đó nữa, nên không nhắc tới chuyện trở về làng Xa nữa.
Ngô Thường gối đầu trên đùi Lâm Tại Đường.
Cảm giác này đối với cô thật quen thuộc.
Những buổi trưa cuối tuần thỉnh thoảng không có việc gì, họ ở nhà trên chiếc sofa dài, anh đọc sách báo, còn cô thì gối đầu lên đùi anh mà ngủ.
Giấc ngủ này gần như chẳng thể yên, thuyền vừa chao, bao nhiêu thứ trong bụng Ngô Thường lại dâng trào lên, cô cố nhịn hết lần này đến lần khác. Lâm Tại Đường vẫn luôn nói: “Nôn ra là sẽ đỡ thôi.” Anh tìm thùng rác, lôi một cái túi nilon đưa đến bên miệng Ngô Thường, để cô nôn ra.
Ngô Thường thật sự không nhịn nổi nữa, khựng một tiếng, cuối cùng nôn ra như long trời lở đất.
Hình như cô thật sự thấy dễ chịu hơn, ít ra thì chẳng còn gì để nôn nữa, mê mê man man ngủ thiếp đi.
Cô bị Lâm Tại Đường vỗ nhẹ đánh thức.
Khi cô mở mắt, thấy mặt trời chói chang ngoài khoang thuyền, mới cảm giác mình cuối cùng đã sống lại. Lúc xuống thuyền, Nguyễn Xuân Quế bâng khuâng nói: “Ông hòa thượng già nói chẳng sai, đời người quả nhiên là luân hồi. Năm đó mẹ cô cũng vừa nôn vừa trốn khỏi làng Xa như vậy.”
“Làm sao bà biết?” Ngô Thường hỏi.
Nguyễn Xuân Quế nở nụ cười lạ lùng, không nói gì.
Bà nhớ năm đó.
Nguyễn Hương Ngọc bỏ trốn hôn sự, Nguyễn Xuân Quế điên dại tìm tin tức của bà, nhưng trước mặt là biển cả chắn ngang đường. Bà chẳng thể đi đâu, chỉ còn biết chờ đợi. Bà chờ thuyền, vì người trên thuyền sẽ mang đến ít nhiều tin tức.
Nguyễn Hương Ngọc từng nói sẽ đưa bà đi, sẽ quay lại đón bà. Bà ngồi bên bờ biển, chẳng chịu đi đâu. Thuyền cuối cùng cũng đến. Bà chạy lên, kéo lấy một người hỏi: “Anh biết Nguyễn Hương Ngọc đó không? Chị ấy đi đâu rồi? Anh có thấy không?”
Người kia ban đầu không muốn rước phiền phức, nhưng thấy bà thật đáng thương, bèn nói: “Cô ấy ói gần chết trên thuyền, giống như mất mạng rồi, sau đó vội vã xuống giữa đường. Còn giờ đi đâu thì tôi không biết…”
Ói gần chết, mất mạng rồi.
Nguyễn Xuân Quế nhớ kỹ mấy chữ đó, suốt nhiều năm về sau bà luôn nghĩ: nếu khi đó chị ta thật sự chết đi, có khi lại tốt hơn.
Lúc này, Lâm Tại Đường nhắc bọn họ cẩn thận bậc thang, nói họ phải trung chuyển, có thể tìm chỗ ăn cơm trước. Nguyễn Xuân Quế đứng bên mép bến tàu không chịu đi vào, vô cùng bực bội, giọng xen lẫn khó chịu: “Nơi này có gì ăn chứ? Cẩn thận tụi nó bỏ thuốc độc vô cơm đó! Đừng có ăn ở đây! Mau tìm ca nô đi!”
Nguyễn Xuân Quế không hiểu, sao một nơi lòng người đen tối như vậy, cuối cùng lại giàu có lên được. Bọn họ bao nhiêu năm qua cứ đè ép làng Xa, bởi vì gần đất liền, nên lúc nào cũng đi trước làng Xa một bước. Giờ lại dựa vào việc “bán rẻ” làng Xa để mưu sinh. Nguyễn Xuân Quế thấy những thứ trong ký ức ùa về liền buồn nôn, lúc ở trên thuyền thì không cảm giác gì, vậy mà giờ đây lại cúi gập người nôn thốc nôn tháo không hề báo trước.
Lâm Tại Đường vội vàng bước tới đỡ lấy bà, khẽ an ủi: “Mẹ, mẹ sao vậy? Có phải mệt quá rồi không?”
Nguyễn Xuân Quế đứng thẳng dậy, lau khóe miệng, trong mắt thấp thoáng ngấn lệ, lớn tiếng giục Lâm Tại Đường: “Mau tìm ca nô! Đi thẳng luôn!”
“Đi thôi.” Ngô Thường nói. Cô đã nhận ra nơi này là đâu rồi, chính là chỗ năm đó Nguyễn Hương Ngọc và Nguyễn Xuân Quế bị bán đi, là nơi “sát hại” Tiểu Liên. Ngô Thường cũng chẳng muốn ở lại đây thêm phút nào, trong lòng dâng lên cảm giác khó chịu sâu sắc: “Mau đi thôi.”
Mãi cho đến khi lên ca nô, sắc mặt của Nguyễn Xuân Quế mới khá hơn đôi chút. Bà bỏ một viên kẹo mận muối vào miệng, gió thổi mạnh, bà mím chặt môi lại.
Ngô Thường cũng không nói gì, tiếng động cơ ca nô gầm rú đã thay lời cô. Cô chỉ mong sớm được gặp lại ngoại và ông.
Đôi mắt cô vẫn dõi thẳng về phía xa.
Cô chưa bao giờ biết Hải Châu lại rộng lớn đến vậy, còn có nơi phải đi thuyền thật lâu mới tới được. Rộng lớn đến mức họ phải lên đường từ tờ mờ sáng, mãi tới khi trời tối mới có thể đến nơi.
Cô nhìn thấy hoàng hôn trên biển, ánh chiều tà nhuộm cả mặt nước thành màu vàng kim. Trong ánh hoàng hôn ấy, một ngôi làng thấp thoáng hiện ra.
Lâm Tại Đường chỉ tay về phía làng đó, hỏi người lái ca nô: “Đó là làng Xa phải không?”
“Đúng vậy.”
Làng Xa ngày càng đến gần.
Ngô Thường không kìm được, liền ngồi thẳng người dậy.
Cô nhớ lại những ngày cuối cùng của mẹ, khi ấy sức lực bà đã chẳng còn, nói với cô câu được câu chăng, đang nói thì ngủ thiếp đi. Có lần cô nghe mẹ thì thào: “Làng Xa… Nguyễn Xuân Quế… cũng chẳng phải không có lúc tốt đẹp. Làng Xa… phong cảnh rất đẹp.”
Cô cảm thấy như chính mình đang đi lại con đường mà mẹ từng đi.
Khi ấy, bà ngoại đường cùng, đành gửi mẹ về làng Xa cho bà cố chăm sóc. Mẹ ngồi thuyền trở về, có lẽ cũng giống như cô bây giờ, say sóng đến mức khó chịu sống không bằng chết.
Làng Xa ngày càng gần.
Ngô Thường nhìn thấy hòn đảo biệt lập giữa biển khơi, đó chính là nơi mẹ đã trải qua những năm tháng tuổi thơ cô độc, lặng lẽ. Cũng là hòn đảo mà mẹ hoảng loạn rời đi, suốt một đời chẳng dám ngoái đầu nhìn lại.
Cô không kìm được mà đứng bật dậy.
“Ngồi xuống! Nguy hiểm đó!” Lâm Tại Đường liền kéo mạnh cô ngồi xuống.
Lúc này, Nguyễn Xuân Quế bỗng phá lên cười lớn. Bà đã nhìn rõ rồi, cái làng Xa ấy, chẳng qua cũng chỉ là cái làng Xa như thế mà thôi! Bà tháo kính râm xuống để nhìn kỹ hơn, có chút kích động nói với Lâm Tại Đường: “Con xem, năm đó, thuyền dừng ngay chỗ đó! Năm đó, Nguyễn Hương Ngọc chính là từ chỗ đó chạy đi đó!”
Gió biển thổi làm nước mắt bà Xuân Quế rơi ra, bà chợt ý thức được mình thất thố, vội vàng đeo lại kính râm. Bà cứ ngồi yên như thế, rồi lại rơi vào trầm mặc. Nguyễn Xuân Quế chợt nhận ra, rất nhiều chuyện đã trở nên mơ hồ. Bà thật sự đã già rồi.
Bà nhớ rõ ông trưởng thôn năm đó từng nói với bà: “Đây là nhà đàng hoàng đó, chẳng lẽ mày muốn ở đây mà chết đói sao?”
“Nhưng Tiểu Liên đã bị tụi nó ép chết rồi. Tôi không muốn đi lại con đường cũ của Tiểu Liên.” Nguyễn Xuân Quế nói.
“Mày đâu có phải Tiểu Liên. Tiểu Liên không được, cái gì cũng không biết làm, bị nhà chồng chê ghét. Mày thì khác, mày vừa đẹp vừa giỏi giang, tụi nó đâu nỡ đánh mày…” Ông trưởng thôn ra sức khuyên răn Nguyễn Xuân Quế.
Mấy chục năm sau, nghĩ lại bộ dạng đáng ghê tởm khi hấp hối của ông trưởng thôn đó, Nguyễn Xuân Quế liền nhổ toẹt một bãi.
Ngô Thường quay đầu nhìn bà. Qua lớp kính râm, cô không thấy được mắt bà, nhưng cơ mặt trên gương mặt ấy căng cứng, chất chứa đầy oán hận sâu nặng. Lúc này Nguyễn Xuân Quế quay phắt đầu lại, lớn tiếng quát cô: “Cô nhìn cái gì mà nhìn! Mẹ cô cũng là đồng phạm đó! Đồng phạm!”
Sau khi nói xong, bà liền bật dậy, muốn nhảy xuống biển: “Tôi nói cho cô biết tôi đã thoát ra bằng cách nào! Tôi nói cho cô biết!”
Bà kích động đến nỗi Lâm Tại Đường phải đứng dậy, ôm chặt lấy bà. Chỉ trong thoáng chốc, bà lại im lặng trở lại, lạnh nhạt nói: “Chọc hai đứa chơi thôi. Mẹ đâu có ngu mà nhảy xuống. Biển ở đây dơ chết đi được.”
Ngô Thường liếc nhìn mặt biển.
Họ sắp cập bờ rồi, bờ biển làng Xa sạch sẽ, uốn lượn, nước trong xanh biếc, đâu có dơ. Nhưng cô cũng hiểu được ý của Nguyễn Xuân Quế.
Người lái ca nô cuối cùng cũng thở phào khi đưa bọn họ lên bờ, cầm bộ đàm nói: “Bọn nhà giàu đều điên như vậy sao? Đáng sợ quá.”
Bọn họ đứng trên bờ, nhìn thấy một làng Xa “nửa sáng nửa tối”.
Ranh giới ấy hiện ra rõ ràng.
Gần sát bờ biển, nơi ấy đã được khai thác, sạch sẽ, thoáng mát, lát một con đường sỏi cuội trông rất đẹp; phía tựa vào núi thì là màu xanh thẫm của hoang vu. Dù còn cách rất xa, vẫn có thể lờ mờ cảm nhận được hơi lạnh lẽo từ trong đó tỏa ra. Sau khi có người đi du lịch thám hiểm phát hiện ra làng Xa, nơi này mới được khai thác như thế. Một bên là nghỉ dưỡng ven biển, một bên là thám hiểm núi rừng.
Không ngờ lại có người đến.
Lâm Tại Đường hỏi Nguyễn Xuân Quế: “Trước đây mẹ có từng tới chưa?”
“Chưa, mẹ với ông con mỗi lần đều gặp ở Thượng Hải.” Nguyễn Xuân Quế nói: “Ai mà tới đây chứ? Nơi này dơ muốn chết.”
Bà lại dùng chữ “dơ” ấy.
“Mẹ thấy đỡ hơn chưa?” Lâm Tại Đường lại hỏi.
“Đỡ rồi.”
“Thật không đó?” Lâm Tại Đường có chút lo lắng cho Nguyễn Xuân Quế. Anh biết từ trước tới nay mẹ mình vẫn luôn có chút điên dại, kiểu chẳng sợ trời chẳng sợ đất, nhưng hôm nay bà nói muốn nhảy xuống biển để diễn lại cảnh thoát thân năm xưa, thật sự làm anh sợ hãi.
Hình như trong thoáng chốc anh cũng hiểu ra được phần nào nỗi đau cùng hận ý sâu kín trong lòng Nguyễn Xuân Quế. Bà chưa bao giờ kể cho anh chuyện làng Xa, bà xem đó là nỗi nhục. Thực ra bà không hề muốn bất cứ ai biết bà xuất thân từ làng Xa, bà luôn tự biên soạn lại thân thế của mình.
“Có thể có chuyện gì được? Mẹ đến cái tuổi này rồi, lẽ nào còn bị người ta bắt đi nữa chắc?” Nguyễn Xuân Quế nói xong liền đi thẳng vào trong. Trong điện thoại của bà có lưu địa chỉ Lâm Hiển Tổ đưa cho, địa chỉ này không giống hồi nhỏ của bà, ghi là dãy núi phía trước mấy hàng hay là gần mép biển gì đó, bây giờ lại là mấy cái chữ như “Sơn viện”, “Hải các” mà trong mắt Nguyễn Xuân Quế nghe loằng ngoằng vô nghĩa. May mà có bản đồ, có thể chỉ đường cho bà đi.
Ngày trước nhà cửa trong làng Xa đều cũ kỹ rách nát, bị gió biển và sóng biển ăn mòn, chỗ nào cũng dột gió dột mưa. Lúc bão đến, mái nhà bị tốc lên, đó là chuyện một năm gặp đi gặp lại nhiều lần. Ở cái làng Xa này, mạng người cũng chẳng đáng giá, người đi biển thường chẳng quay về, còn kẻ ở lại thì chết bởi thiên tai nhân họa. Nơi này chính là như vậy.
Những căn nhà nát ấy đập đi xây lại thì quá dễ.
Vậy nên phía giáp biển đã dựng lên những biệt thự nhỏ.
Trước mỗi căn biệt thự đều có những người trẻ đang phơi nắng, ngay trên bãi cát sát biển còn xây cả sân bóng đá, lũ nhỏ chạy nhảy đá banh. Tiếng cười vang vọng mãi ra tới biển, lên tận trời cao.
Điều đó khiến Nguyễn Xuân Quế thấy ngẩn ngơ.
Đây còn là làng Xa sao? Cái làng Xa rách nát, hấp hối, chỗ nào cũng nồng nặc mùi mục rữa năm xưa đó sao?
Bà tiếp tục bước tới, đi lên phía trên, cảm giác quen thuộc ùa về. Con đường này chính là con đường dẫn đến nhà ngoại của Nguyễn Hương Ngọc, thuở nhỏ bà đã đi lại trên đó không biết bao nhiêu lần! Khi ấy, bụng đói cồn cào, bà lại chạy đi tìm Nguyễn Hương Ngọc. Từ trong túi móc ra chút đồ ăn giấu kỹ, nhét vội vào tay bạn rồi lập tức chạy ra ngoài. Cậu của bà ở phía sau mắng bà là con nhỏ hoang, bà ngoại thì nói: “Nó còn nhỏ xíu vậy, mày ràng buộc nó chi?”
Hai đứa cứ thế ùa lên núi, muỗi mòng vây quanh, thỉnh thoảng còn có cả rắn. Nguyễn Xuân Quế mặc kệ hết thảy, vội vàng nuốt lấy nuốt để, ăn xong thì nuốt ực xuống bụng, vì nhai chưa kỹ nên đồ ăn thường mắc nơi cổ họng, lúc nuốt xuống thường phải trợn trắng mắt lên.
Rồi một ngày cứ thế trôi qua. Tuy còn nhỏ nhưng cũng phải làm việc. Trước tiên là lên núi tìm củi khô, đem về nhà nhóm lửa. Kế đó ra bãi biển, những thứ nhặt được có thể chống đói. Người làng Xa đã chẳng còn mặn mà với hải sản nữa, họ nhìn thấy hải sản là ngán. Họ thích ăn gạo trắng, bột mì trắng, trứng gà, gà vịt, thịt heo, nhưng những thứ đó ở nơi này hiếm hoi, phải đợi thuyền chở đến, mua được chút đỉnh để gọi là có bữa tươi ngon.
Khi ấy, điều Nguyễn Xuân Quế mong chờ nhất chính là dì Diệp.
Dì Diệp xinh đẹp, mảnh mai, từ trên chiếc thuyền bước xuống. Mỗi lần đều ăn mặc sạch sẽ tinh tươm, nhưng gương mặt thì tiều tụy. Trên cánh tay dì xách một cái giỏ, trong giỏ lúc nào cũng có đồ ăn. Dì sợ trong nhà đông người, hai đứa không có phần, nên luôn hẹn trước một khoảng thời gian dì trở về, có khi một tháng, có khi hai tháng. Đến ngày dì về, hai đứa từ sớm đã đứng chờ trên núi hoặc bên bờ, vừa thấy dì xuống thuyền liền ùa đến. Dì dẫn hai đứa tới nơi vắng người, trước tiên đưa chút đồ ăn cho hai đứa, lại dặn đem giấu đi một ít, rồi sau đó mới thong thả quay về.
Anh trai của dì lúc nào cũng mắng dì là sao chổi, nói rằng bên nhà giàu ở Ôn Châu có người đến tìm họ đòi người, là do ông ta phải quỳ lạy cầu khẩn, người ta mới chịu bỏ qua cho ông ta.
“Chuyện đó mấy năm rồi hả? Sao em phải đi Ôn Châu? Không phải là anh đã lén bán em đi sao? Làm mẹ tức bệnh luôn rồi.” Dì Diệp thường hay nói vậy.
Anh trai dì liền im bặt, không dám lên tiếng nữa. Bây giờ ông ta sợ cô em gái, dẫu thế nào thì em gái về cũng mang theo chút đồ ăn, để lại vài đồng bạc, đủ cho họ sống qua ngày.
Những chuyện này Nguyễn Xuân Quế đều nhớ lại hết.
Quả nhiên, cuối cùng họ dừng lại trước cửa nền nhà cũ của nhà họ Nguyễn. Họ giơ tay gõ cửa, bên trong có một thanh niên giống dáng quản gia ra mở, hỏi họ tìm ai.
“Ông Lâm Hiển Tổ, bà Diệp Mạn Văn.” Lâm Tại Đường nói.
“Hai người đang ngủ. Mấy người phải đợi chút rồi.” Quản gia nói: “Dạo này họ rất hay buồn ngủ, nói là ánh nắng nơi này tốt, thích hợp để ngủ.”
Lâm Tại Đường gật gù, sau đó ngồi xuống chiếc bàn trà được dựng trong sân. Nguyễn Xuân Quế cũng ngồi xuống, bà đảo mắt nhìn quanh, sợ đâu đó bất ngờ nhảy ra ông cậu của Nguyễn Hương Ngọc, người sau này sẽ biến thành ác quỷ. Rồi bà chợt nhớ ra: lão già chết tiệt đó cũng đã sớm chết rồi. Bà còn sợ gì nữa chứ? Thế là cuối cùng bà thôi không nhìn ngang ngó dọc nữa.
Ngô Thường thì chưa ngồi, cô nhìn xuyên qua cửa kính sát đất vào trong, thấy trong gian phòng khách rộng lớn đặt hai chiếc ghế bập bênh: một chiếc của bà ngoại, một chiếc của ông nội. Đầu họ đều nghiêng tựa trên lưng ghế, miệng há ra mà ngủ. Chỉ cần họ khẽ nhúc nhích, ghế bập bênh lại khẽ lay động. Chắc hẳn họ rất sợ lạnh, Ngô Thường nghe nói người già rồi ai cũng sợ lạnh, bởi vì cả hai đều khoác một chiếc áo ngoài, trên chân còn đắp chăn lông.
Hoàng hôn muộn màng ấy rốt cuộc cũng sắp lặn xuống.
Ánh sáng dần dần tan khỏi gương mặt họ. Ban đầu trán tối sầm lại, tiếp đó đến mắt, cánh mũi, sau cùng là cả gương mặt. Ngô Thường cứ thế kiên nhẫn, lặng lẽ ngắm nhìn. Cô không muốn đánh thức họ, chỉ muốn khắc ghi trong tim khung cảnh an yên, đẹp đẽ đến vậy.
Là bà ngoại mở mắt trước.
Bà chầm chậm mở mắt, thấy trước cửa sổ có một người, bà giật nảy mình, kêu lên: “Ma kìa!”
Lâm Hiển Tổ bừng tỉnh, thuận tay chụp lấy quyển sách bên cạnh định ném, miệng còn lẩm bẩm: “Đừng tới rước tôi lúc này, đợi thêm vài tháng nữa!” Ông cứ ngỡ Diệp Mạn Văn đã trông thấy Hắc Bạch Vô Thường.
Ngô Thường bật cười ngoài cửa, rồi lớn tiếng gọi: “Ngoại! Là con nè! Thường Thường nè!”
Diệp Mạn Văn dụi dụi mắt, ngơ ngác lẩm bẩm: “Hương Ngọc, sao Thường Thường thoắt cái lớn vầy rồi? Bộ cho nó ăn cám heo hả?” Lúc này trí nhớ của bà vẫn còn dừng ở thời điểm sau khi Ngô Thường mới ra đời chưa bao lâu.
Lâm Tại Đường và Nguyễn Xuân Quế theo chân quản gia bước vào trong, anh nhìn thấy Lâm Hiển Tổ đã gầy đến độ chẳng còn ra dáng người, xương khớp đều lồi hẳn ra, mới đó mà gương mặt đã biến đổi dữ dội.
Trong lòng Lâm Tại Đường chợt quặn thắt, nhưng anh cố nén bi thương, mỉm cười nói: “Ông ơi, tụi con không nghe lời, lén chạy tới thăm ông rồi.”
Lâm Hiển Tổ chỉ vào Nguyễn Xuân Quế nói: “Con đó, con đó, sao đến già rồi còn chẳng chịu gánh vác vậy hả?”
Nguyễn Xuân Quế bướng bỉnh ngoảnh mặt đi, ánh mắt đảo khắp gian nhà.
Nơi này đã chẳng còn dấu vết gì của ngày xưa nữa. Khi bà quay đầu lại, Ngô Thường đã nhào vào lòng Diệp Mạn Văn, không ngừng thổn thức: “Ngoại, con nhớ ngoại lắm. Ngoại, con đưa ngoại về nhà nha?”
Diệp Mạn Văn hỏi cô: “Sao con lại gọi dì là ngoại? Con gái dì còn đang ở làng Xa, chỉ là một đứa nhỏ xíu à. Bộ con nhận lầm người rồi sao?”
Ngô Thường bèn ngưng lời, hỏi: “Sao ngoại lại gửi con gái về làng Xa vậy? Ngoại không nhớ nó sao?”
Diệp Mạn Văn lúc này lau nước mắt, nghẹn ngào nói: “Không ai lo cho nó hết, dì lo cho nó thì cả nhà không có cơm ăn, sẽ chết đói mất. Bé Hương Ngọc nhỏ bé của dì, nó còn nhỏ xíu à. Dì nhớ bé Hương Ngọc của dì quá…”
Trong lòng Diệp Mạn Văn, cả đời này không có khó khăn nào là không vượt qua nổi. Chỉ duy nhất một chuyện khiến bà hối hận suốt đời, chính là đã gửi đứa con gái ruột thịt Hương Ngọc về làng Xa. Khi đó bà đã bị dồn đến bước đường cùng, thật sự không còn cách nào khác, chỉ còn có thể trông cậy vào người mẹ ốm yếu kia.
Diệp Mạn Văn khóc òa: “Dì nhớ bé Hương Ngọc của dì quá…”
Ký ức của bà quay về những năm bảy mươi của thế kỷ trước, cái thập niên bảy mươi xa xôi, cái thập niên bảy mươi đầy đau khổ.
Bà khóc, Ngô Thường cũng khóc, hai người ôm chặt đầu nhau mà khóc òa.
Một người nhớ con gái, một người nhớ mẹ, tiếng khóc hòa cùng nhịp.
Sau đó Diệp Mạn Văn không khóc nữa, bà hỏi Ngô Thường: “Sao con khóc vậy?”
Ngô Thường cũng thôi khóc, nói: “Con mau nước mắt lắm, thấy người ta khóc thì con cũng muốn khóc.”
“Vậy chồng con sao lại khóc?”
Ngô Thường quay đầu nhìn Lâm Tại Đường, theo phản xạ nói: “Anh ấy không phải chồng con, anh ấy là…”
“Chồng cũ.” Lâm Tại Đường thản nhiên trả lời, sau đó anh ngồi xuống, nhìn Diệp Mạn Văn: “Ngoại, ngoại còn nhớ con không?”
Diệp Mạn Văn chớp mắt suy nghĩ mãi, rồi nói: “Ngoại nhớ con chứ, Bộc Quân Dương.”
Trong thế giới của Diệp Mạn Văn, tất cả ký ức đều rối loạn. Tòa cung điện ấy đã bị xé mất khái niệm thời gian, những quyển sách bên trong có thể được lật ra bất cứ lúc nào, nhưng chẳng còn phân biệt được là viết vào năm nào.
Bác sĩ từng nói với Ngô Thường: đến giai đoạn này, năng lực hành động của bà sẽ ngày càng kém, tính tình cũng sẽ thay đổi một trời một vực.
Bà ngoại thật sự đã già rồi.
102
Bờ Biển Ánh Sao - Cô Nương Đừng Khóc