Giam Nàng Trong Trướng - Tụ Tụ Yên
Chương 93: Phúc lợi 2 – Nếu như (2)
187@-
Tống Thanh Hòa vừa mới thi đấu xong một trận, liền đến rủ Thi Yến Vi ra bãi cỏ chơi, cũng tiện thể dạy nàng cưỡi ngựa.
Tống Hành lo Tống Thanh Hòa không đủ kiên nhẫn, chỉ sợ làm khổ người khác, nghĩ tới nghĩ lui vẫn quyết định đi theo hai người.
Thấy vậy nên Tống Thanh Hòa cũng lấy làm khó hiểu. Nàng hỏi thử một câu nhưng Tống Hành chỉ đáp là muốn luyện cưỡi ngựa bắn cung.
Quả đúng như hắn đoán, Tống Thanh Hòa nhất thời nổi hứng, vung roi giục ngựa lao nhanh về phía trước, Tống Hành cũng thúc ngựa đuổi theo, song hắn càng đuổi, Tống Thanh Hòa càng chạy nhanh.
Thi Yến Vi căng thẳng, khó tránh khỏi bị dọa đến giật mình. Lúc xuống ngựa, nàng loạng choạng mất đà, suýt nữa ngã nhào, may mà được Tống Hành đỡ kịp.
Trong đầu nàng bất giác hiện lên cảnh tượng đêm nọ cũng từng được hắn dìu đỡ thế này. Đến khi kịp hoàn hồn, phát hiện cánh tay hắn đang đỡ ngay dưới b** ng*c mình, nàng hoảng hốt, vội vàng đẩy tay hắn ra.
Mùi thơm thanh nhã và xúc cảm mềm mại đồng thời ập đến khiến Tống Hành gần như nghẹn thở. Đôi tai hắn đỏ bừng như một thiếu niên ngây ngô mới lớn, giả vờ như không có chuyện gì xảy ra, rồi bảo Tống Thanh Hòa đưa nàng vào nghỉ ở đình phía trước.
Đến xế chiều, Tiết phu nhân cho người mời hắn tới hỏi chuyện.
“Dương nương tử có dung mạo như thế, lại có tính nết dịu dàng hiền thục, nếu có thể bầu bạn bên cạnh Nhị lang, tất sẽ là người hiểu lòng biết ý. Nhị lang thấy nàng ấy có được không?” Tuy biết rõ câu trả lời nhưng Tiết phu nhân vẫn cố tình hỏi vậy.
Tống Hành không đáp, gật đầu thật mạnh.
Đó là điều bà đã đoán trước. Tiết phu nhân trầm ngâm giây lát, lại hỏi: “Nhị lang muốn nạp nàng làm thiếp sao?”
Chuyện vợ hay thiếp, Tống Hành vẫn chưa nghĩ kỹ nên chưa thể đưa ra đáp án.
“Dương nương tử xuất thân từ Dương thị đất Hoằng Nông, nhưng nhà họ Dương đã sa sút từ lâu. Huống chi nàng chỉ là cô nhi, không có cha mẹ, không huynh đệ để dựa dẫm. Dù có thân phận là em gái của ân nhân cứu mạng Tam lang đi chăng nữa, cũng khó mà làm chính thất được.”
“Sau này Nhị lang là người sẽ dấn bước, tranh đỉnh thiên hạ, phi vị sẽ không làm nàng chịu thiệt. Đây vốn là phúc phận mà bao nữ lang cầu còn chẳng được.”
Tống Hành im lặng nghe bà nói hết, cuối cùng vẫn không đưa ra câu trả lời. Hắn ngồi thêm một lúc, nói vài câu chuyện ngoài lề, rồi cáo từ rời đi.
Mấy ngày liên tiếp sau đó, Tống Hành đều đi sớm về muộn. Hôm ấy khi Thi Yến Vi đến Thối Hàn cư để tìm hắn, nàng đã phải chờ đến quá nửa canh giờ mới gặp được.
Trong quãng thời gian ấy, ngày nào hắn cũng nghĩ về việc có nên nạp nàng hay không. Đến khi gặp được nàng, chuyện là vợ hay là thiếp tạm chưa bàn tới, nhưng hắn đã biết rõ một điều: hắn muốn nàng, muốn được cùng nàng sống bên nhau thật dài lâu.
Tống Hành cố giữ phong thái của một quân tử nho nhã, mời nàng vào phòng hỏi chuyện kỹ hơn.
Thi Yến Vi phải tốn không ít lời mới giãi bày xong mục đích đến đây, nào ngờ lại khiến Tống Hành bỗng dấy lên một cơn ghen vô cớ. Hắn ghen với tỳ nữ được nàng đặt ở trong lòng.
Trong đầu hắn, muôn ngàn ý nghĩ bắt đầu xoay chuyển.
Hắn thừa biết mình có thể lợi dụng việc này để hoàn thành một ý đồ hạ tiện, chẳng hạn như nhân cớ ấy nạp nàng làm thiếp.
Thế nhưng ý nghĩ ấy chỉ vừa lướt qua trong đầu, Tống Hành đã cảm thấy bản thân vừa bôi nhọ nàng.
Bên ngoài cửa sổ, mây đen cuồn cuộn kéo đến, cuồng phong rít qua khe cửa khiến ánh nến chao đảo suýt tắt. Tống Hành cố kìm nỗi khao khát đối với nàng, đôi mắt đen sâu thẳm ánh lên sự dịu dàng cùng nhẫn nại. Hắn sợ khiến nàng sợ hãi nên không dám tùy tiện tiến gần, chỉ đứng dậy, điềm tĩnh nói: “Nương tử yên tâm, mỗ nhất định sẽ xử lý ổn thỏa chuyện này.”
Thi Yến Vi không ngờ hắn lại dễ nói chuyện đến thế, hơn nữa còn giữ được vẻ đoan chính, lễ độ, trước mặt nàng cũng không có chút nào gọi là ngạo mạn hay xem thường người khác.
Ngoài cửa sổ mưa xuân rả rích. Trước lúc nàng rời đi, Tống Hành đích thân lấy cho nàng một chiếc ô có vẽ hoa mộc phù dung, loài hoa mà trong mộng, nàng từng nói là nàng rất thích.
Tống Hành giữ đúng lời hứa, ngay ngày hôm sau, hắn đã ra mặt giải quyết việc này: không những để Ngân Chúc rời phủ mà còn xóa bỏ nô tịch cho nàng, đồng thời tác thành cho nàng và Triệu lang quân.
Thi Yến Vi nghe tin, thật lòng vui mừng cho Ngân Chúc. Hai người ngồi lại tâm sự với nhau rất nhiều điều, sau đó Thi Yến Vi mới chịu để Ngân Chúc rời khỏi viện của mình.
Chiều hôm đó, Thi Yến Vi mang ô đến trả cho Thối Hàn cư. Vì dạo gần đây Tống Hành luôn về phủ rất muộn, nàng vốn nghĩ sẽ không gặp được hắn, ai ngờ vừa rời khỏi con dốc dưới viện thì đã chạm mặt hắn ở bậc thềm cuối cùng.
Tống Hành chào hỏi đôi câu, làm như vô tình nhắc đến: “Mộc phù dung vốn là loài hoa sinh trưởng ở đất Hồ Nam, mấy năm gần đây mới truyền đến phương Bắc. Hoa nở vào tiết thu khi cây cỏ héo tàn, nhưng lại rực rỡ sum suê, lộng lẫy như gấm, chẳng hề thua kém mẫu đơn mùa xuân. Dương nương tử có thích loài hoa ấy không?”
Thi Yến Vi vẫn còn cảm giác mang ơn với hắn, cũng chẳng phòng bị gì nhiều. Nghe hắn hỏi vậy, nàng bất giác mỉm cười, chân thành đáp lại: “Thích ạ. Cao Thiềm có câu: “Phù dung sinh tại thu giang thượng. Bất hướng đông phong oán vị khai.” [1] Thiếp đọc đã thấy rất hay.”[1]
[1] Hai câu trích trong bài “Há đệ hậu thướng Vĩnh Sùng Cao thị lang” (Dâng Cao thị lang Vĩnh Sùng sau khi thi trượt) của tác giả Cao Thiềm.
Bản dịch của Hải Đà (thivien.net): Phù dung vốn nở sông Thu. Hoa chưa khai nhuỵ, chẳng thù gió đông.
Tống Hành nghe vậy, chẳng hề giấu giếm sự tán thưởng, thuận theo lời nàng khen ngợi: “Phù dung thanh cao thuần khiết, rất giống phẩm hạnh của nương tử. Có lẽ cũng vì thế nên nương tử mới yêu mến hoa này đấy.”
Thi Yến Vi vốn không phải loại người sôi nổi cởi mở, nghe lời khen ấy thì không khỏi đỏ mặt, dịu dàng nói: “Gia chủ quá lời rồi. Thiếp chỉ là người trần tục lụy, nào dám nhận mình thanh cao. Chiếc ô hôm nọ gia chủ cho thiếp mượn, vừa rồi thiếp đã mang trả lại. Nếu gia chủ không còn chuyện gì khác, thiếp xin được cáo lui trước.”
Giấc mộng kia đã được kiểm chứng ngoài đời thực, tim Tống Hành bất giác đập mạnh. Hắn sợ nếu nói thêm câu nào thì sẽ mạo phạm đến nàng, không biết chừng còn khiến nàng hiểu nhầm hắn là kẻ bất nhã l* m*ng. Nghĩ thế nên hắn không nói thêm gì nữa, chỉ gật nhẹ đầu, ý bảo nàng cứ tự nhiên.
Thấy vậy, Thi Yến Vi lại hành lễ lần nữa, rồi xoay người rời đi.
Tống Hành đứng yên tại chỗ, dõi mắt trông theo bóng dáng nàng. Mãi đến khi nàng khuất hẳn khỏi tầm nhìn, hắn mới trở về Thối Hàn cư.
Vừa bước vào cửa, hắn đã sai Phùng Quý đem chiếc ô kia tới. Hắn cầm cán ô, ngắm kỹ hình vẽ mộc phù dung bên trên, trong lòng không ngừng nghĩ về nữ lang tựa đóa hoa kia.
Ngày hôm sau, tin tức Tống Hành lên đường đến Quỳ Châu đã lan truyền khắp phủ. Hắn ở lại Quỳ Châu đôi ba ngày để bàn bạc điều kiện cùng sứ giả, sau đó tiếp tục lên đường đến U Châu thị sát.
Một đêm giữa hành trình, Tống Hành mơ thấy mình đăng cơ xưng Đế, lập nàng làm Hậu. Họ đã có con chung, nhưng nàng chưa từng cảm thấy hạnh phúc khi ở bên hắn, cũng chưa từng dành cho hắn chút tình ý nào, dù là rất nhỏ. Sau đó, nàng mắc bệnh nặng, hắn thả nàng rời cung, hai người từng có những tháng ngày yên bình thư thả bên ngoài cung, nhưng cũng chẳng kéo dài được lâu. Trong mộng cảnh cuối cùng, nữ lang nằm trong lòng hắn, hơi thở mong manh, yếu ớt như tơ, miệng thều thào những lời trăn trối: rằng nàng vẫn không thể tha thứ cho hắn.
Tống Hành nhớ rất rõ từng chi tiết trong giấc mơ kia, nên cũng hiểu rõ vì sao nàng lại không thể tha thứ cho hắn. Mọi đau thương đều do tự hắn gieo xuống, phải nhận quả đắng như vậy, cũng chẳng có gì oan uổng.
“Ta sẽ không làm tổn thương Âm Nương nữa… sẽ không đâu.” Trong mộng, hắn lẩm bẩm câu ấy, sau đó ôm thi thể vẫn còn chưa lạnh của nàng, uống cạn một chén thuốc độc, theo chân nàng xuống hoàng tuyền.
Tống Hành giật mình tỉnh giấc, trái tim đau nhức như vừa bị bóp nghẹt. Không biết từ khi nào, khóe mắt hắn đã ngập tràn lệ nóng, sống mũi cay xè, cổ họng cũng tắc nghẹn, chỉ có thể há miệng th* d*c, đè nén cảm xúc trong lòng.
Từng câu từng chữ trong giấc mơ ấy như tảng đá nặng tựa ngàn cân, đè lên lồng ngực hắn, khiến hắn không tài nào quên được.
Hắn tuyệt đối không thể trở thành kẻ thô bạo, hung hãn và tàn nhẫn như trong giấc mộng kia, càng không thể dùng đến thủ đoạn đê tiện để ép buộc nàng.
Hắn phải học cách tôn trọng, học cách yêu thương, giống như thời điểm khi cả hai đã trở thành Đế Hậu. Nếu không có những chuyện tệ hại kia, chưa chắc nàng đã không động lòng với hắn…
Hắn nên dùng chân tâm để đổi lấy chân tình, dùng cả tấm lòng nhiệt thành để giành được trái tim nàng, chứ không phải coi nàng là món đồ chơi trong tay, là con chim trong lồng, muốn chà đạp thế nào thì chà đạp.
Sau khi nghĩ thông suốt mọi chuyện, Tống Hành cảm thấy hơi thở cũng nhẹ nhõm phần nào. Dẫu trong lòng vẫn âm ỉ đau, nhưng nếu những chuyện trong mộng thực sự đã xảy ra, thì dù nỗi đau ấy có kéo dài trăm ngày hay ngàn ngày, đó cũng là báo ứng mà hắn đáng phải nhận.
Mùa hạ đến tự lúc nào không hay.
Tống Hành trở về Thái Nguyên. Trước cổng phủ, hắn bắt gặp bóng dáng thanh nhã quen thuộc giữa đám đông, song chỉ có thể mang theo vạn phần quyến luyến sải bước đi vào, mấy lần định quay đầu nhìn nàng nhưng đều cố gắng dằn xuống, chỉ sợ khiến nàng khó xử.
Thi Yến Vi đi bên cạnh Tống Thanh Hòa, vừa đi vừa nói cười không dứt, nàng không biết người đi phía trước là Tống Hành đang một lòng một dạ nghĩ về nàng.
Về đến Thối Hàn cư, việc đầu tiên Tống Hành làm là sai Phùng Quý đi tìm thợ thủ công lành nghề, dùng gỗ tử đàn hắn mang về từ U Châu chế thành một cây đàn tỳ bà khảm trai. Giao phó xong xuôi, lúc này hắn mới cởi giáp, vào phòng tắm, gột rửa bụi đường.
Tiết phu nhân đã chuẩn bị yến tiệc tẩy trần cho hắn, bởi vậy sau khi tắm rửa, cạo sạch râu, hắn cố ý chọn một chiếc trường bào cổ lật màu đen, dệt hoa văn chìm hình cây trúc, là kiểu mà Tống Thanh Hòa từng khen là rất hợp với hắn. Phát quan cũng đổi sang loại có gắn ngọc quý, ngoại trừ đai lưng điệp tiệp bằng vàng thì còn treo thêm một miếng ngọc bội linh thú bằng Hán ngọc, cốt để bản thân trông càng thêm phần phong nhã, tuấn tú.
Vừa trông thấy hắn, Tống Thanh Hòa đã thấy là lạ, ngẫm nghĩ một thoáng rồi dừng ánh mắt trên gương mặt tựa đóa phù dung của Thi Yến Vi, không hiểu sao lại nhớ đến một đoạn văn miêu tả cảnh con công đực đang xòe đuôi làm dáng ở trong sách.
Hình như chỉ cần Dương nương tử có mặt ở đó là Nhị huynh của nàng sẽ bày ra dáng vẻ hiền hòa, trầm ổn khác thường.
Đôi khi, Tống Hành lại khẽ nghiêng đôi mắt phượng nhìn trộm sang phía Thi Yến Vi, chỉ mong nàng không nhận ra, hoàn toàn chẳng hay biết rằng ngay lúc ấy, Tống Thanh Hòa cũng đang lặng lẽ quan sát hắn.
Ban đầu chỉ là một ý nghĩ thoáng qua khi cho rằng Nhị huynh đã động lòng với Dương nương tử, nhưng sau một hồi quan sát, Tống Thanh Hòa gần như có thể khẳng định: nhất định Nhị huynh đã nảy sinh tình ý với nàng.
Tống Thanh Hòa không muốn hành động hấp tấp, tạm thời đè nén sự háo hức trong lòng, muốn nhìn xem Nhị huynh vẫn luôn mắt cao hơn đầu, không vướng bụi trần kia sẽ dùng cách thức nào để chiếm được trái tim của Dương nương tử, liệu có dụng tâm khổ kế như trong lời kể của mấy gánh hát hay không.
Tiệc tan, Tiết phu nhân giữ riêng Tống Hành lại trò chuyện. Trước là hỏi về cuộc gặp mặt giữa hắn và sứ giả Khiết Đan tại Quỳ Châu, cùng tình hình thị sát các châu quận thuộc vùng Yên Vân; sau đó mới hỏi hắn có dự định thế nào với Thi Yến Vi.
Đôi mắt sáng của Tống Hành sẫm lại, ánh nhìn kiên định, giọng điệu nghiêm túc, thốt ra mấy chữ: “Cưới nàng làm vợ.”
Tuy Tiết phu nhân đã đoán trước được phần nào, nhưng đến lúc nghe hắn tự mình nói ra điều này, bà vẫn không khỏi thở dài, ý tứ sâu xa: “Xuất thân và gia thế của Dương nương tử hơi thấp, không thể mang lại chút ích lợi nào cho cháu. Nhị lang đã suy nghĩ kỹ chưa?”
Tống Hành gật đầu, khẩu khí cương quyết: “Đừng nói nàng là đứa bé mồ côi xuất thân từ sĩ tộc sa sút, kể cả khi nàng không thuộc lương tịch, mỗ cũng không cưới ai khác ngoài nàng. Từ năm mười lăm tuổi mỗ đã theo phụ thân chinh chiến khắp nơi, đến nay chưa từng bại trận, vậy thì cớ gì phải dùng hôn nhân để đổi lấy cái gọi là “lợi ích” mà a bà vừa nhắc đến. Dẫu không có thê tử xuất thân từ đại tộc hiển quý, mỗ vẫn có thể tranh đoạt thiên hạ.”
Tiết phu nhân đã nhìn hắn lớn lên, hiểu rõ tính nết của hắn, một khi đã quyết thì không gì lay chuyển nổi. Bà biết có khuyên thêm cũng vô ích, đã thế còn sinh ra hiềm khích tổ tôn, nên cũng đành thôi.
“Nhị lang đã quyết thế rồi, vậy a bà chúc cháu sớm được như ý nguyện.” Dứt lời, bà mượn cớ thân thể mỏi mệt, bảo hắn đã mấy ngày vất vả đường xa, chi bằng lui về nghỉ ngơi sớm.
Tống Hành rời khỏi Thúy Trúc cư, Phùng Quý đã chờ sẵn bên ngoài từ lâu.
Hắn muốn dùng Bắc châu và áo choàng lông cáo mà nước Bột Hải tiến cống đến dâng lên nữ lang trong lòng mình, nhưng vì sợ nàng suy nghĩ nhiều, nên đành dặn Phùng Quý đến khố phòng tìm thêm vài món, đợi đến ngày Đoan Ngọ thì sẽ gửi đến mỗi viện một hai món, nói là chút lễ mọn hắn chuẩn bị cho các viện nhân dịp tiết Đoan.
Phùng Quý đợi mãi mới thấy Thi Yến Vi từ thiện phòng trở về. Hắn bưng lễ vật trình lên.
“Nhân tiết Đoan Ngọ, gia chủ có chuẩn bị lễ vật đưa đến các viện, đây là phần của Dương nương tử.” Vừa sai người đặt đồ lên bàn, Phùng Quý vừa khéo léo truyền đạt ý tứ của gia chủ: “Áo choàng lông cáo này, tiểu nương tử cũng có một chiếc, còn hộp Bắc châu này vốn dĩ đầy ắp, nhưng phần lớn đã được đưa sang cho tiểu nương tử. Xem ra trong mắt gia chủ, Dương nương tử với tiểu nương tử là như nhau.”
Đây là lần đầu tiên Thi Yến Vi được nghe những lời như vậy, nên cũng thuận theo lời của Phùng Quý, tự đặt mình vào vị trí “một nửa em gái” trong mắt Tống Hành. Mãi cho đến sau này, sau vô số lần “vô tình gặp mặt” với Tống Hành, nàng mới dần cảm nhận được ý vị khác thường trong đó.
Đó là vào một buổi chiều đầu thu, Tống Hành khải hoàn trở về từ Phượng Tường, nàng đã gặp lại hắn trong vườn. Hắn khen đóa hải đường và thông thảo cài trên tóc nàng thật đẹp. Ngay sau đó, Thi Yến Vi liền bắt gặp ánh nhìn khác lạ trong mắt hắn, đó không còn là ánh nhìn của huynh trưởng đối với muội muội, mà càng giống với ánh mắt của một nam lang khi hướng về người trong lòng hơn.
Ánh mắt ấy lướt qua rất nhanh, dù Thi Yến Vi cũng chẳng thể nắm bắt rõ ràng, nhưng từ đó về sau, nàng vẫn nảy sinh vài phần cảnh giác, để rồi bắt đầu né tránh hắn.
Thi Yến băn khoăn chuyện nàng có nên rời khỏi Tống phủ, tìm nơi khác để ở không, nhưng ý nghĩ ấy vừa nhen nhóm chưa được hai ngày, thì Tống Hành đã đích thân đến tìm nàng.
Không phải đến để thổ lộ chuyện tình cảm nam nữ, mà là để hỏi nàng có định mở một cửa tiệm nào không.
Tống Hành không tiếc lời khen tay nghề của nàng, điểm tâm và trà ngọt nàng làm đều rất ngon miệng, nếu mở một cửa tiệm, ắt sẽ buôn may bán đắt.
Thực ra Thi Yến Vi đã nghĩ đến chuyện mở tiệm từ lâu, có điều nơi nàng nhắm đến là thành Cẩm Quan, lại thêm việc vừa mới đặt chân đến thế giới này, nhiều chuyện còn chưa kịp thích ứng, nên ý nghĩ đó cũng tạm thời bị gác lại.
Những gì Tống Hành vừa nói chẳng khác nào một lần nữa khơi dậy ý tưởng ấy trong đầu nàng.
Nếu có thể mở một cửa tiệm ở Thái Nguyên, tích lũy trước một chút kinh nghiệm thì cũng không tồi.
Nghĩ đến đây, Thi Yến Vi gật đầu tán thành.
Từ đó trở đi, suốt hơn một tháng sau, nàng bận đến không thể ngơi tay: tìm kiếm mặt bằng, tiếp nhận cửa tiệm, sửa sang, tuyển người, việc gì cũng phải nhúng tay. Đến ngày chính thức khai trương, vợ chồng Tống Duật và Tống Thanh Hòa đều mang lễ mừng đến ủng hộ, ngay cả Tống Hành luôn bận rộn trăm công nghìn việc cũng đến dự.
Chỉ có điều, lễ vật mà Tống Hàng mang đến có phần lạc quẻ nếu đem so với những người khác. Đó là một cây đàn tỳ bà khảm trai, đối với người làm bánh và mở trà phường như nàng thì chẳng có lấy nửa phần hữu dụng.
Nhưng nghĩ lại, hắn là người đã tặng nàng áo lông cáo trắng giữa ngày Hạ Chí, nên giờ có mang đàn tỳ bà đến mừng ngày khai trương thì cũng chẳng có gì kỳ quặc nữa.
Thi Yến Vi mỉm cười, cảm tạ một cách nhã nhặn. Nàng mời mọi người vào trong tiệm thưởng trà nếm bánh.
Từ hôm ấy trở đi, nàng bắt đầu cuộc sống hai điểm một đường: sáng rời phủ, tối mới về. Thời gian ở lại cửa tiệm kéo dài hơn, cũng dần quen với vài người bạn.
Nàng có dung mạo kiều diễm, tuy ngoài kia đã truyền tai nhau rằng nàng và phủ họ Tống có mối giao tình sâu đậm, song vẫn không thể ngăn được những nam lang trong thành ôm lòng ngưỡng mộ, rục rịch muốn thử vận may. Trong số đó, có không ít người xuất thân sang quý, mạnh dạn đến gặp Tiết phu nhân và ngỏ ý cầu thân.
Tống Hành hay tin, trong lòng vừa gấp vừa giận, cả ngày mặt nặng mày nhẹ, nhóm hạ nhân làm việc dưới trướng hắn lúc nào cũng nơm nớp lo sợ, phải để ý từng ly từng tí.
Trằn trọc đến mấy đêm, sau cùng Tống Hành vẫn cẳng thể kìm nén nổi tình cảm trong lòng, đến gõ cửa viện của Thi Yến Vi.
Thi Yến Vi thấy gương mặt đầy nôn nóng bất an của hắn, đang định mở miệng hỏi có chuyện gì gấp, thì Tống Hành đã giành trước một bước: “Ta thực sự không thể nhẫn nhịn thêm một khắc nào nữa, nhất định phải đích thân nói ra những lời này.
Lòng bàn tay hắn nóng rực, vành tai cũng đỏ ửng, đôi mắt phượng tràn đầy thành ý và thâm tình: “Từ lâu lắm rồi, ta đã đem lòng yêu thương nàng, muốn cưới nàng làm vợ.”
Thi Yến Vi bị lời hắn nói làm chấn động đến ngẩn người, mãi vẫn chưa hoàn hồn. Đợi đến khi nàng hiểu ra hắn vừa thổ lộ điều gì, thì Tống Hành đã nói tiếp về chuyện hắn si mê nàng ra sao, ngày đêm nhớ mong nàng thế nào… thậm chí không ngừng nhấn mạnh về những điều tốt đẹp nàng sẽ có được nếu như chịu gả cho hắn.
Tống Hành luôn nghĩ nàng vốn không có lý do gì để từ chối. Hắn một mực nghĩ rằng chỉ bằng tấm chân tình này, nàng ắt sẽ gật đầu đồng thuận.
Thế nhưng, dẫu trong lòng Thi Yến Vi ít nhiều rung động bởi những lời bày tỏ rất dài ấy, thì nàng vẫn chưa đến mức để tình cảm che mờ lý trí.
Công bằng mà nói, ấn tượng của nàng về hắn xưa nay vẫn không tệ, trong lòng cũng chưa từng dấy lên cảm giác chán ghét hay bài xích. Thế nhưng, chừng ấy vẫn chưa đủ để nàng nghĩ đến chuyện gả cho hắn, dẫu hắn có chân thành đến mấy, hay dốc hết lòng dạ để thổ lộ với nàng.
“Ta không thể đồng ý với ngài được.” Như không thể đối diện với sự thất vọng và chán nản trong ánh mắt hắn, Thi Yến Vi hơi nghiêng đầu, không nhìn hắn nữa, giọng nàng điềm tĩnh: “Ngài là gia chủ của Tống phủ, thân phận tôn quý, từ khi sinh ra đã sống trong nhung lụa. Một người như ngài, dĩ nhiên sẽ không bằng lòng với chế độ một vợ một chồng, trong khi ta lại không muốn cùng người khác hầu hạ một trượng phu. Ngoài chuyện này ra, trong lòng ta vẫn còn vương vấn một người, không có ý định tìm kiếm ai khác. Giờ ngài đã nghe hết những lời ta vừa nói, liệu ngài còn có thể nói rằng ngài sẽ toàn tâm toàn ý yêu ta và muốn cưới ta nữa không?”
Nửa câu đầu của nàng chỉ khiến Tống Hành trầm ngâm đôi chút, nhưng sau khi hiểu ra, hắn nghĩ rằng nếu họ cũng có thể giống như cha mẹ hắn, hoặc giống như Văn Đế và Văn Hiến hoàng hậu triều trước, một đời cầm sắt hòa hợp, cứ ở bên nhau cũng không tệ.
Nhưng nửa câu sau lại như dao cứa, nhát sau sâu hơn nhát trước, khiến người nghe đau đến không sao chống đỡ nổi.
Thảo nào dù hắn đã cố gắng rất lâu nhưng nàng vẫn cứ thờ ơ chẳng chút lay động. Thì ra, trong lòng nàng đã sớm có người khác rồi.
Tống Hành đứng đó, ngẩn ngơ mất một lúc lâu. Sau một tràng cười tự giễu, hắn đổi cách xưng hô và nói: “Mỗ chỉ muốn hỏi nàng một câu, rằng mấy tháng qua, liệu đã khi nào, hay dù chỉ một lần, nàng rung động trước mỗ?”
Khi mới đến đây và trước khi Ngân Trúc rời khỏi Tống phủ, nàng vẫn thường nhớ lại những ký ức vụn vặt đã có với Trần Nhượng, mãi chẳng thể nào buông bỏ. Thế nhưng sau đó, số lần nàng nghĩ đến anh cứ dần vơi đi. Lần gần nhất, dường như đã là chuyện của tháng trước.
Nàng không rõ chuyện này có liên quan gì đến Tống Hành hay không. Cảm giác mơ hồ, khó nắm bắt ấy khiến Thi Yến Vi nhíu mày, những ngón tay vô thức siết chặt lấy vạt áo, chậm rãi thốt ra hai chữ: “Chưa từng.”
Chỉ vỏn vẹn hai chữ ấy thôi nhưng khi nói ra, Thi Yến Vi bỗng cảm thấy cực kỳ khó khăn. Một thứ cảm xúc lạ lùng không thể gọi tên lấp đầy tâm trí nàng, khiến nàng thấy âm ỉ khó chịu.
Những lời gần như tuyệt tình của nàng như lưỡi dao khoét thẳng vào tim Tống Hằng, dập tắt hết thảy nhiệt huyết trong lồng ngực hắn. Hắn rũ mắt, nhìn nàng thật lâu, rồi như đã hạ quyết tâm, giọng khàn khàn bật ra từng tiếng: “Dương Sở Âm, nàng giỏi lắm. Từ nay về sau, mỗ sẽ không đến quấy rầy nàng nữa.”
Câu nói vừa giống như tức giận lại vừa như quyết tuyệt kia giống như những hạt mưa nhỏ xíu, rơi xuống trái tim Thi Yến Vi, cõi lòng nàng liên tục xáo động, không tài nào lắng lại được.
Hôm ấy, sau khi Tống Hành rời đi, quả thật hắn đã rất lâu không còn tìm đến nàng nữa. Mãi đến sau này, Thi Yến Vi mới nghe Tống Thanh Hòa nói: Tống Hành đã lĩnh chỉ vào Trường An thuật chức.
Đêm hôm ấy, Thí Yến Vi ôm đàn tỳ bà, khép hờ đôi mắt, ngón tay lướt nhẹ lên dây đàn, trong đầu chợt hiện lên dáng hình của một nam lang.
Trong tiềm thức, nàng cứ ngỡ đó sẽ là Trần Nhượng. Thế nhưng, khi gương mặt kia dần trở nên rõ nét… người đó lại là Tống Hành.
Thi Yến Vi giật mình mở bừng mắt. Nàng cố ép mình đàn xong khúc nhạc, sau đó uống cạn một chén trà ấm, rồi đi tắm gội, thay xiêm y, lên giường ngả đầu lên gối.
Ngày tháng lặng lẽ trôi qua. Sau bao ngày không gặp, cuối cùng Thi Yến Vi lại mơ thấy Trần Nhượng.
Khác với những lần trước, lần này anh như đến để nói lời từ biệt: “Chuyện xưa không thể vãn hồi, anh và bác trai bác gái đều mong em có thể nhìn về phía trước, Vi Vi.”
Rõ ràng Thi Yến Vi thấy anh ở ngay trước mắt nhưng tay nàng vươn mãi vẫn chẳng thể chạm tới anh được. Nước mắt không kìm được, lã chã rơi xuống, cuối cùng nàng nghẹn ngào thốt ra một chữ “được”.
Khi tỉnh mộng, lệ đã hóa thành vệt ướt loang lổ bên má. Đôi mắt vẫn còn ẩm ướt, phần trán hơi nhức mỏi vì khóc quá lâu.
Bên ngoài gió lạnh căm căm, nàng khoác chiếc áo choàng lông cáo trắng Tống Hành từng tặng. Ở cửa bên và cửa sau trà phường, nàng dựng hai mái lều nhỏ, bắc mấy nồi canh ngọt, cháo nóng, phát cho người ăn xin và những kẻ nghèo khó.
Từ ngày trà phường đi vào nề nếp, nàng đã dặn các tiểu nhị: sau khi đóng cửa, cơm canh còn thừa phải mang ra phía sau, chia cho những người cơ hàn.
Lại thêm một tháng trôi qua. Ngay trước thềm năm mới, Tống Hành trở về Thái Nguyên.
Sau lần bị thích khách ám sát, lại thêm nhiều ngày rong ruổi đường xa, thân hình hắn gầy đi trông thấy, sắc mặt cũng hằn rõ vẻ mỏi mệt tiều tụy. Tiết phu nhân vừa nhìn đã đau lòng không thôi.
Ngay hôm ấy, bà đặc biệt mở một bàn tiệc lớn, đón gió tẩy trần, nghênh đón hắn hồi phủ.
Nhưng Tống Hành vẫn giữ dáng vẻ lãnh đạm, chẳng hứng thú, chỉ lặng lẽ ngồi nơi góc vắng, nâng chén uống rượu, mắt chẳng buồn liếc đến ai trên bàn tiệc.
Vậy mà dù cố đè nén đến đâu, rốt cuộc hắn vẫn không nhịn được, lén nhìn về phía nàng giữa đám đông. Đó là nữ lang mà hắn ngày đêm nhung nhớ. Cho dù nàng từng nói trong tim đã có người khác, cho dù nàng thừa nhận chưa từng động lòng vì hắn, thì hắn vẫn chẳng thể quên được nàng.
Càng muốn khống chế tình cảm của mình, hắn lại càng không sao buông bỏ. Như thể đã trúng phải một loại cổ tình nàng vô tình hạ xuống, dù thế nào cũng không thể thôi nghĩ về nàng, không thể dứt được nỗi nhớ nhung, huống hồ là ngừng yêu nàng.
Mãi đến đêm gặp thích khách ở Trường An, khi Phùng Quý liều chết đá tung cửa phòng, gọi hắn tỉnh lại, Tống Hành mới thật sự cảm nhận được lằn ranh sinh tử. Lửa đã bốc lên dữ dội, trong khoảnh khắc ngắn ngủi ấy, hắn bỗng thấy sợ – sợ cái chết, sợ không thể hoàn thành tâm nguyện của phụ thân, sợ chẳng thể thực hiện được những hoài bão trong lòng, và hơn hết… sợ rằng đời này sẽ không còn cơ hội gặp lại nàng.
Thôi thì, dù trong tim nàng có người khác, thì đã sao? Chỉ cần nàng chịu dành cho hắn một góc nhỏ, chỉ cần nàng chấp nhận hắn, dù với bất kỳ thân phận nào… hắn cũng cam tâm tình nguyện.
Tống Hành liếc nhìn nàng nhiều lần, rốt cuộc cũng bị nàng bắt gặp một lần. Thế nhưng khi ánh mắt hai người giao nhau, trong mắt nàng lại mang theo vài phần lảng tránh, dường như không dám nhìn thẳng vào hắn.
Mấy chục ngày không gặp, trái tim vốn đã bình lặng của nàng lại vì hắn mà gợn lên những gợn sóng lăn tăn, đôi má bất giác ửng hồng, nàng vội cúi đầu, nâng chén trà uống liền hai ngụm.
Hắn từng nói sẽ không đến tìm nàng nữa, và quả thực hắn đã làm được. Chỉ mong từ nay về sau, hắn vẫn có thể giữ vững lời hứa ấy. Thi Yến Vi thầm nghĩ vậy, nhưng đi cùng nỗi yên tâm lại là một cảm giác xót xa khó tả.
Tống Hành ngồi ở ghế thượng tọa, im lặng uống rượu, chịu đựng cho đến khi tiệc tan. Hắn dùng ánh mắt ra hiệu cho Phùng Quý. Hiểu ý chủ nhân, Phùng Quý liền sai người mang một chiếc đèn lồng minh giác đến, mượn danh nghĩa của Tiết phu nhân trao lại cho Thi Yến Vi.
Thi Yến Vi có mang theo đèn lồng, nhưng dĩ nhiên là không thể sánh với chiếc đèn tinh xảo mà Phùng Quý đã cho người mang đến. Dù trong lòng có hơi lấn cấn nhưng sau một hồi suy nghĩ, nàng vẫn đón nhận tấm lòng của “Tiết phu nhân”.
Nữ lang mặt tròn như mâm bạc thấy nàng xách đèn liền cười nói: “Dương nương tử không cần trả lại chiếc đèn này đâu, chỉ là đèn nương tử cầm đã cũ quá rồi, chi bằng để em mang đi sửa, sau này để người bên Thúy Trúc cư dùng cũng được.”
“Vật tận kỳ dụng, như thế cũng tốt.” [2] Thi Yến Vi nói xong, cầm đèn đi ra ngoài.[2]
[2] “” (vật tận kỳ dụng): để cho vật được sử dụng đến cùng, phát huy hết công dụng vốn có của nó.
Viện nàng ở nằm sâu trong hoa viên, không được như chỗ ở của mấy vị chủ tử trong phủ, vì vậy phải đi một đoạn khá xa mới đến nơi.
Đang giữa mùa đông giá rét, trời lạnh thấu xương, mây đen che khuất ánh trăng. Thi Yến Vi quấn chặt áo choàng gấm, chầm chậm bước tới.
Đôi giày đế cao màu trắng tinh giẫm trên con đường đá phát ra những tiếng động khe khẽ. Bỗng một cơn gió lạnh thổi qua, mang theo hương mai nhàn nhạt, xen lẫn mùi rượu thoang thoảng.
Lúc ngồi trên bàn tiệc, Thi Yến Vi chưa từng chạm môi vào bất kỳ chén rượu nào, vậy mùi rượu này từ đâu mà đến? Đang lúc nghi hoặc, nàng ý thức được có điều bất thường, bèn giơ đèn lên, quay đầu nhìn ra phía sau.
Một bóng người cao lớn như núi đột ngột xuất hiện trong tầm mắt. Bằng phản xạ, nàng lập tức liên tưởng đến một người. Khi ánh đèn chiếu rõ gương mặt với những đường nét tuấn tú quen thuộc, nàng liền gọi thử một tiếng: “Gia chủ.”
Tống Hành không còn kìm nổi ngọn lửa khát khao và nỗi nhớ triền miên, sải bước hướng về phía nàng. Không để nàng kịp phản ứng, cánh tay rắn rỏi đã vươn ra, kéo nàng siết chặt vào lòng.
“Ta yêu nàng, Âm Nương. Ta có thể vì nàng mà cả đời không nạp thiếp, chỉ một lòng một dạ với nàng; cho dù trong tim nàng đã có người khác cũng chẳng sao, chỉ cần nàng chịu nhường cho ta một góc nhỏ để chen vào… chỉ thế thôi cũng đủ. Dù nàng chưa thể mở lòng ngay lúc này, ta vẫn có thể đợi, ta có đủ kiên nhẫn…”
“Nàng thích tự do, thích được tôn trọng, những điều đó ta đều nghe theo nàng. Sau này nếu chúng ta thành thân, ta tuyệt đối sẽ không trói buộc nàng; nàng muốn buôn bán, muốn du ngoạn, muốn cứu giúp dân nghèo, tất cả ta đều để nàng làm theo ý mình. Ta thật lòng với nàng, xin nàng đừng nhẫn tâm đẩy ta ra, được không?”
Khi nói những lời ấy, đôi mắt phượng sâu thẳm của hắn chứa đựng biết bao sự chân thành, tha thiết và cả cầu khẩn. Ánh nhìn ấy khiến trái tim Thi Yến Vi run lên, không sao nói được câu từ chối.
Thế nhưng lý trí lại nhắc nhở nàng rằng: những lời đường mật, những lời thề non hẹn biển ấy, với một quyền quý như hắn, liệu có đáng tin? Bởi họ có thể dễ dàng nuốt lời với những người ở tầng lớp thấp hơn, mà không phải trả bất kỳ cái giá nào.
Thi Yến Vi trầm ngâm rất lâu, cuối cùng vẫn không thể đáp ứng, nhưng cũng không cự tuyệt thẳng thừng, chỉ nói hiện giờ nàng vẫn chưa muốn gả chồng.
Nghe vậy, Tống Hành không khỏi thấy hụt hẫng, nhưng nghĩ lại, thái độ của nàng đã không còn cứng rắn như lần trước, hiển nhiên không phải là hoàn toàn không muốn cho hắn một cơ hội.
Tinh thành sở chí, kim thạch vi khai. [3] Chỉ cần hắn một lòng một dạ đối với nàng, nhất định sẽ khiến nàng rung động và đón nhận hắn.[3]
[3] “Tinh thành sở chí, kim thạch vi khai” (Hậu Hán Thư – Quảng Lăng Tư vương Kinh truyện). Dịch nghĩa: Tâm hết mực chân thành có thể khiến vàng đá mở ra. Nguồn chú thích: https://www.dkn.tv
Nghĩ vậy, lòng Tống Hành mới nhẹ nhõm đôi chút. Hắn đánh bạo đưa tay nâng khuôn mặt nàng lên, đặt một nụ hôn nhẹ tựa chuồn chuồn lướt nước trên trán nàng.
Thi Yến Vi còn chưa kịp định thần thì Tống Hành đã cúi người, khom lưng giúp nàng chỉnh lại áo choàng, cẩn thận buộc chặt dây áo: “Trời lạnh thế này, nàng ra ngoài phải giữ gìn, chớ để nhiễm phong hàn. Ta đưa nàng về.”
Nàng vốn định từ chối, nhưng lời đến cổ họng như bị thứ gì đó níu lại, cuối cùng nuốt ngược vào trong.
Tim bất giác đập nhanh hơn một nhịp, nàng khẽ “ừ” một tiếng, rồi xoay người tiếp tục bước về phía trước.
Tống Hành không sánh bước cùng nàng, mà lặng lẽ đi phía sau, hệt như một viên thị vệ trung thành hộ tống chủ tử mình.
Từ đêm ấy trở đi, tâm tư của Thi Yến Vi dành cho Tống Hành cũng từ từ thay đổi. Tình cảm của hắn như một hạt giống âm thầm cắm rễ trong lòng nàng, ngày một vươn chồi, bén rễ sâu hơn.
Ngày nối ngày, hễ có thời gian rảnh là Tống Hành lại hỏi thăm tin tức của nàng từ Phùng Quý. Lâu dần, Phùng Quý đã chẳng còn là tiểu tư hầu cận thân thiết nữa, mà biến thành đôi mắt, đôi tai để hắn nghe ngóng tin tức của nàng.
Tống Hành dường như không biết mỏi mệt, cách hai ba ngày lại tìm đủ cớ để được tiếp xúc hay chạm mặt Thi Yến Vi. Nàng thừa hiểu những lần gặp gỡ tưởng chừng vô tình ấy thực chất đều là do hắn sắp đặt, song chưa từng một lần bóc trần. Dù sao hắn cũng chưa làm điều gì quá đáng, nên nàng cũng mặc kệ hắn.
Không rõ từ khi nào, nàng đã bắt đầu mong chờ lần gặp mặt kế tiếp, chờ xem hắn sẽ dùng cách thức gì để xuất hiện trước mặt mình.
Sau Tết, tin Giang Triều ép Thánh nhân thoái vị nhường ngôi ngay trong cung Đại Minh vào đêm ba mươi lan khắp Thái Nguyên. Lúc ấy, Tống Hành đã thống lĩnh binh mã tiến về Trường An.
Chỉ trong hơn một tháng ngắn ngủi, quân Hà Đông thế như chẻ tre, lần lượt hạ Hoa Châu, Đồng Quan rồi đánh chiếm Trường An, sau đó tiếp tục kéo quân về phía Tây, mưu đồ đoạt lấy Lạc Dương.
Thượng tuần tháng Ba, tướng trấn thủ Lạc Dương buông đao, đầu hàng vô điều kiện, toàn bộ Thần Đô rơi trọn vào tay Tống Hành.
Tống Hành ở lại Lạc Dương hơn mười ngày để xử lý mọi việc lớn nhỏ, nhưng trong khoảng thời gian ấy vẫn không quên sai Phùng Quý vào thành tìm mua một con mèo con đến từ Đại Thực quốc.
Phùng Quý vừa nghe dặn đã hiểu ngay, gia chủ tìm vật hiếm ấy là để lấy lòng ai rồi.
Ngày Tống Hành trở về Thái Nguyên, người trong phủ vẫn như mọi lần, ra tận cổng lớn nghênh đón hắn.
Tống Hành đảo mắt nhìn qua đám đông nhưng lại không thấy Thi Yến Vi đâu, lòng hắn không khỏi dấy lên lo lắng. Đợi đến khi vào phủ, hắn liền gọi Phùng Quý tới tra hỏi.
Phùng Quý hạ giọng bẩm: “Dạo này Dương nương tử với Ngân Chúc đang chạy vạy khắp nơi để tìm mua trà Minh Tiền, [4] chắc sẽ về muộn hơn bình thường.”[4]
[4] Trà Minh Tiền (): là loại trà được hái trước tiết Thanh Minh, nổi tiếng bởi hương vị tươi non, thanh khiết, được xem là thượng phẩm trong các loại trà.
Tống Hành khẽ “ừm” một tiếng, phất tay cho lui. Sau khi tắm rửa xong, hắn đến tham dự dạ yến, nhưng suốt cả yến tiệc đêm đó, hắn luôn mang một vẻ trầm tư. Phải đến khi Phùng Quý cho người đến báo rằng Thi Yến Vi đã trở về phủ, hắn mới giãn mày, đứng dậy rời tiệc.
Phùng Quý đã chờ sẵn bên ngoài từ lâu, trong lòng ôm một con mèo nhỏ.
Tống Hành hít sâu một hơi, trấn tĩnh lại rồi đón con mèo từ tay Phùng Quý, sải bước đi thẳng tới viện của Thi Yến Vi.
Thi Yến Vi vừa trải qua một ngày mệt nhọc, lúc đang soi gương tháo trâm thì ngoài cửa bỗng vang lên tiếng gõ nhẹ. Nàng ra ngoài, đứng giữa sân cất giọng hỏi là ai, thì lại nghe tiếng mèo kêu khe khẽ.
“Dương nương tử, trên đường về, gia chủ nhặt được một con mèo nhỏ, muốn hỏi nương tử có muốn nuôi không.”
Tiếng mèo kêu non nớt, nghe như đang mè nheo trong lòng người. Thi Yến Vi vốn mềm lòng, dĩ nhiên không nỡ, bèn ra mở cửa.
Tống Hành vừa trông thấy nàng thì ngẩn ra, đoạn lóng ngóng ôm con mèo đưa sát đến gần nàng.
Đêm hè trăng sáng thanh trong, Thi Yến Vi mượn ánh nguyệt quang dịu dàng để nhìn rõ con mèo trong tay hắn. Đó là một con mèo Ba Tư toàn thân tuyết trắng, đôi mắt xanh biếc như hai viên bảo thạch.
Ở thời hiện đại, mèo Ba Tư vốn đã thuộc hàng đắt đỏ, huống chi là thời cổ đại, vật chất khan hiếm, phải mất bao công sức mới có thể đưa nó từ Đại Thực quốc xa xôi theo con đường tơ lụa về tới Trung Nguyên. Đó là chưa kể, dọc đường còn có rất nhiều con chết vì không hợp khí hậu, khiến giá trị đội lên gấp bội, dù có tiền cũng chưa chắc mua nổi.
Một con mèo quý giá thế kia, nếu bị bỏ mặc giữa phố thì cũng được người ta tranh nhau giành lấy, đâu dễ để Tống Hành “nhặt” được.
Thi Yến Vi chẳng buồn vạch trần lời nói dối vụng về ấy. Nàng mỉm cười, uyển chuyển từ chối: “Con mèo này nhìn rất giống con mèo trong viện của Nhị nương, chi bằng gia chủ hãy mang tặng nàng ấy, để Đạp Vân có bạn chơi cùng.”
Tống Hành nghe vậy, sắc mặt hơi sượng, đành ho khan hai tiếng để lấy lại bình tĩnh, rồi nói tiếp: “Nương tử cũng đang ở trong phủ, muốn ôm nó sang tìm Nhị nương và Đạp Vân chơi lúc nào mà chẳng được? Viện của nàng lại không có người hầu, nhìn hơi vắng vẻ, có nó làm bạn chẳng phải sẽ tốt hơn sao?”
Nói rồi, hắn dứt khoát nhét con mèo vào lòng nàng. Con mèo nhỏ dường như rất có linh tính, như nhận ra nữ lang trước mắt là người dịu dàng, liền cất tiếng “meo meo” phụ họa, làm trái tim Thi Yến Vi cũng nhũn cả ra.
Tống Hành thấy nàng có vẻ đã xiêu lòng, liền thuyết phục thêm: “Nương tử nhìn xem, nó cũng thích nàng lắm đấy. Nếu nàng không chịu giữ nó thì chỉ còn gã thô lỗ là ta đây phải nuôi nó thôi. Nhưng tính ta lại không được tinh tế chu toàn, e sẽ làm nó chịu thiệt.”
Mèo Ba Tư vốn cần sự chăm sóc cẩn thận. Thi Yến Vi ngẫm nghĩ một lúc, cuối cùng không nỡ từ chối, đành “miễn cưỡng” nhận lấy.
Nàng ôm con mèo nhỏ xíu vào lòng, như ôm một nhúm bông trắng tinh nhẹ hẫng, nghiêm túc nói: “Gia chủ đã tặng nó cho ta, thì về sau dù muốn đòi lại, ta cũng sẽ không đồng ý đâu đấy.”
Tống Hành đáp một cách sảng khoái: “Nương tử yên tâm, đã tặng nó cho nàng thì từ nay về sau nó chính là mèo của nàng, nào có chuyện ta đòi lại nữa chứ.”
“Trời cũng đã khuya, thiếp không dám giữ chân hai vị lang quân thêm nữa.” Thi Yến Vi ôm con mèo, nói xong liền lui vào trong, không chút nể tình đóng sập cửa lại.
Con mèo ấy rất quấn người, Thi Yến Vi bế nó trong tay, vừa v**t v* vừa nghĩ tên cho nó. Nghĩ đi nghĩ lại, cuối cùng nàng gọi nó là “Lệ Chi”.
Lệ Chi không nghịch ngợm như Đạp Vân, nhưng cũng không hẳn lười biếng. Mỗi ngày nó chỉ quanh quẩn chơi đùa trong sân viện gần nhà, bởi thế mỗi lần nàng đi tìm nó cũng chẳng tốn bao nhiêu công sức.
Ngày tháng cứ thế trôi qua, Thi Yến Vi dần nhận ra dụng ý thực sự của Tống Hành khi tặng nàng con mèo này. Hắn làm vậy không chỉ để lấy lòng nàng, mà còn để có thêm một cái cớ nếu muốn đường hoàng đến tìm.
Khi thì viện cớ giúp nàng tìm Lệ Chi khi nàng từ trà phường trở về phủ, khi thì viện cớ tới thăm con mèo nhỏ mà hắn đã cứu về, nhân tiện mang cho nó đủ thứ đồ ăn như tôm luộc, cá khô đã gỡ xương, ức gà luộc…
Thi Yến Vi nể mặt Lệ Chi, chẳng buồn lật tẩy hắn, thậm chí còn đối đãi với hắn ôn hòa hơn mấy phần.
Editor có lời muốn nhắn nhủ:
Mình đang phấn đầu ngày gõ 3k chữ hoàn thành trước kỳ nghỉ lễ ~
Giam Nàng Trong Trướng - Tụ Tụ Yên
Tống Thanh Hòa vừa mới thi đấu xong một trận, liền đến rủ Thi Yến Vi ra bãi cỏ chơi, cũng tiện thể dạy nàng cưỡi ngựa.
Tống Hành lo Tống Thanh Hòa không đủ kiên nhẫn, chỉ sợ làm khổ người khác, nghĩ tới nghĩ lui vẫn quyết định đi theo hai người.
Thấy vậy nên Tống Thanh Hòa cũng lấy làm khó hiểu. Nàng hỏi thử một câu nhưng Tống Hành chỉ đáp là muốn luyện cưỡi ngựa bắn cung.
Quả đúng như hắn đoán, Tống Thanh Hòa nhất thời nổi hứng, vung roi giục ngựa lao nhanh về phía trước, Tống Hành cũng thúc ngựa đuổi theo, song hắn càng đuổi, Tống Thanh Hòa càng chạy nhanh.
Thi Yến Vi căng thẳng, khó tránh khỏi bị dọa đến giật mình. Lúc xuống ngựa, nàng loạng choạng mất đà, suýt nữa ngã nhào, may mà được Tống Hành đỡ kịp.
Trong đầu nàng bất giác hiện lên cảnh tượng đêm nọ cũng từng được hắn dìu đỡ thế này. Đến khi kịp hoàn hồn, phát hiện cánh tay hắn đang đỡ ngay dưới b** ng*c mình, nàng hoảng hốt, vội vàng đẩy tay hắn ra.
Mùi thơm thanh nhã và xúc cảm mềm mại đồng thời ập đến khiến Tống Hành gần như nghẹn thở. Đôi tai hắn đỏ bừng như một thiếu niên ngây ngô mới lớn, giả vờ như không có chuyện gì xảy ra, rồi bảo Tống Thanh Hòa đưa nàng vào nghỉ ở đình phía trước.
Đến xế chiều, Tiết phu nhân cho người mời hắn tới hỏi chuyện.
“Dương nương tử có dung mạo như thế, lại có tính nết dịu dàng hiền thục, nếu có thể bầu bạn bên cạnh Nhị lang, tất sẽ là người hiểu lòng biết ý. Nhị lang thấy nàng ấy có được không?” Tuy biết rõ câu trả lời nhưng Tiết phu nhân vẫn cố tình hỏi vậy.
Tống Hành không đáp, gật đầu thật mạnh.
Đó là điều bà đã đoán trước. Tiết phu nhân trầm ngâm giây lát, lại hỏi: “Nhị lang muốn nạp nàng làm thiếp sao?”
Chuyện vợ hay thiếp, Tống Hành vẫn chưa nghĩ kỹ nên chưa thể đưa ra đáp án.
“Dương nương tử xuất thân từ Dương thị đất Hoằng Nông, nhưng nhà họ Dương đã sa sút từ lâu. Huống chi nàng chỉ là cô nhi, không có cha mẹ, không huynh đệ để dựa dẫm. Dù có thân phận là em gái của ân nhân cứu mạng Tam lang đi chăng nữa, cũng khó mà làm chính thất được.”
“Sau này Nhị lang là người sẽ dấn bước, tranh đỉnh thiên hạ, phi vị sẽ không làm nàng chịu thiệt. Đây vốn là phúc phận mà bao nữ lang cầu còn chẳng được.”
Tống Hành im lặng nghe bà nói hết, cuối cùng vẫn không đưa ra câu trả lời. Hắn ngồi thêm một lúc, nói vài câu chuyện ngoài lề, rồi cáo từ rời đi.
Mấy ngày liên tiếp sau đó, Tống Hành đều đi sớm về muộn. Hôm ấy khi Thi Yến Vi đến Thối Hàn cư để tìm hắn, nàng đã phải chờ đến quá nửa canh giờ mới gặp được.
Trong quãng thời gian ấy, ngày nào hắn cũng nghĩ về việc có nên nạp nàng hay không. Đến khi gặp được nàng, chuyện là vợ hay là thiếp tạm chưa bàn tới, nhưng hắn đã biết rõ một điều: hắn muốn nàng, muốn được cùng nàng sống bên nhau thật dài lâu.
Tống Hành cố giữ phong thái của một quân tử nho nhã, mời nàng vào phòng hỏi chuyện kỹ hơn.
Thi Yến Vi phải tốn không ít lời mới giãi bày xong mục đích đến đây, nào ngờ lại khiến Tống Hành bỗng dấy lên một cơn ghen vô cớ. Hắn ghen với tỳ nữ được nàng đặt ở trong lòng.
Trong đầu hắn, muôn ngàn ý nghĩ bắt đầu xoay chuyển.
Hắn thừa biết mình có thể lợi dụng việc này để hoàn thành một ý đồ hạ tiện, chẳng hạn như nhân cớ ấy nạp nàng làm thiếp.
Thế nhưng ý nghĩ ấy chỉ vừa lướt qua trong đầu, Tống Hành đã cảm thấy bản thân vừa bôi nhọ nàng.
Bên ngoài cửa sổ, mây đen cuồn cuộn kéo đến, cuồng phong rít qua khe cửa khiến ánh nến chao đảo suýt tắt. Tống Hành cố kìm nỗi khao khát đối với nàng, đôi mắt đen sâu thẳm ánh lên sự dịu dàng cùng nhẫn nại. Hắn sợ khiến nàng sợ hãi nên không dám tùy tiện tiến gần, chỉ đứng dậy, điềm tĩnh nói: “Nương tử yên tâm, mỗ nhất định sẽ xử lý ổn thỏa chuyện này.”
Thi Yến Vi không ngờ hắn lại dễ nói chuyện đến thế, hơn nữa còn giữ được vẻ đoan chính, lễ độ, trước mặt nàng cũng không có chút nào gọi là ngạo mạn hay xem thường người khác.
Ngoài cửa sổ mưa xuân rả rích. Trước lúc nàng rời đi, Tống Hành đích thân lấy cho nàng một chiếc ô có vẽ hoa mộc phù dung, loài hoa mà trong mộng, nàng từng nói là nàng rất thích.
Tống Hành giữ đúng lời hứa, ngay ngày hôm sau, hắn đã ra mặt giải quyết việc này: không những để Ngân Chúc rời phủ mà còn xóa bỏ nô tịch cho nàng, đồng thời tác thành cho nàng và Triệu lang quân.
Thi Yến Vi nghe tin, thật lòng vui mừng cho Ngân Chúc. Hai người ngồi lại tâm sự với nhau rất nhiều điều, sau đó Thi Yến Vi mới chịu để Ngân Chúc rời khỏi viện của mình.
Chiều hôm đó, Thi Yến Vi mang ô đến trả cho Thối Hàn cư. Vì dạo gần đây Tống Hành luôn về phủ rất muộn, nàng vốn nghĩ sẽ không gặp được hắn, ai ngờ vừa rời khỏi con dốc dưới viện thì đã chạm mặt hắn ở bậc thềm cuối cùng.
Tống Hành chào hỏi đôi câu, làm như vô tình nhắc đến: “Mộc phù dung vốn là loài hoa sinh trưởng ở đất Hồ Nam, mấy năm gần đây mới truyền đến phương Bắc. Hoa nở vào tiết thu khi cây cỏ héo tàn, nhưng lại rực rỡ sum suê, lộng lẫy như gấm, chẳng hề thua kém mẫu đơn mùa xuân. Dương nương tử có thích loài hoa ấy không?”
Thi Yến Vi vẫn còn cảm giác mang ơn với hắn, cũng chẳng phòng bị gì nhiều. Nghe hắn hỏi vậy, nàng bất giác mỉm cười, chân thành đáp lại: “Thích ạ. Cao Thiềm có câu: “Phù dung sinh tại thu giang thượng. Bất hướng đông phong oán vị khai.” [1] Thiếp đọc đã thấy rất hay.”[1]
[1] Hai câu trích trong bài “Há đệ hậu thướng Vĩnh Sùng Cao thị lang” (Dâng Cao thị lang Vĩnh Sùng sau khi thi trượt) của tác giả Cao Thiềm.
Bản dịch của Hải Đà (thivien.net): Phù dung vốn nở sông Thu. Hoa chưa khai nhuỵ, chẳng thù gió đông.
Tống Hành nghe vậy, chẳng hề giấu giếm sự tán thưởng, thuận theo lời nàng khen ngợi: “Phù dung thanh cao thuần khiết, rất giống phẩm hạnh của nương tử. Có lẽ cũng vì thế nên nương tử mới yêu mến hoa này đấy.”
Thi Yến Vi vốn không phải loại người sôi nổi cởi mở, nghe lời khen ấy thì không khỏi đỏ mặt, dịu dàng nói: “Gia chủ quá lời rồi. Thiếp chỉ là người trần tục lụy, nào dám nhận mình thanh cao. Chiếc ô hôm nọ gia chủ cho thiếp mượn, vừa rồi thiếp đã mang trả lại. Nếu gia chủ không còn chuyện gì khác, thiếp xin được cáo lui trước.”
Giấc mộng kia đã được kiểm chứng ngoài đời thực, tim Tống Hành bất giác đập mạnh. Hắn sợ nếu nói thêm câu nào thì sẽ mạo phạm đến nàng, không biết chừng còn khiến nàng hiểu nhầm hắn là kẻ bất nhã l* m*ng. Nghĩ thế nên hắn không nói thêm gì nữa, chỉ gật nhẹ đầu, ý bảo nàng cứ tự nhiên.
Thấy vậy, Thi Yến Vi lại hành lễ lần nữa, rồi xoay người rời đi.
Tống Hành đứng yên tại chỗ, dõi mắt trông theo bóng dáng nàng. Mãi đến khi nàng khuất hẳn khỏi tầm nhìn, hắn mới trở về Thối Hàn cư.
Vừa bước vào cửa, hắn đã sai Phùng Quý đem chiếc ô kia tới. Hắn cầm cán ô, ngắm kỹ hình vẽ mộc phù dung bên trên, trong lòng không ngừng nghĩ về nữ lang tựa đóa hoa kia.
Ngày hôm sau, tin tức Tống Hành lên đường đến Quỳ Châu đã lan truyền khắp phủ. Hắn ở lại Quỳ Châu đôi ba ngày để bàn bạc điều kiện cùng sứ giả, sau đó tiếp tục lên đường đến U Châu thị sát.
Một đêm giữa hành trình, Tống Hành mơ thấy mình đăng cơ xưng Đế, lập nàng làm Hậu. Họ đã có con chung, nhưng nàng chưa từng cảm thấy hạnh phúc khi ở bên hắn, cũng chưa từng dành cho hắn chút tình ý nào, dù là rất nhỏ. Sau đó, nàng mắc bệnh nặng, hắn thả nàng rời cung, hai người từng có những tháng ngày yên bình thư thả bên ngoài cung, nhưng cũng chẳng kéo dài được lâu. Trong mộng cảnh cuối cùng, nữ lang nằm trong lòng hắn, hơi thở mong manh, yếu ớt như tơ, miệng thều thào những lời trăn trối: rằng nàng vẫn không thể tha thứ cho hắn.
Tống Hành nhớ rất rõ từng chi tiết trong giấc mơ kia, nên cũng hiểu rõ vì sao nàng lại không thể tha thứ cho hắn. Mọi đau thương đều do tự hắn gieo xuống, phải nhận quả đắng như vậy, cũng chẳng có gì oan uổng.
“Ta sẽ không làm tổn thương Âm Nương nữa… sẽ không đâu.” Trong mộng, hắn lẩm bẩm câu ấy, sau đó ôm thi thể vẫn còn chưa lạnh của nàng, uống cạn một chén thuốc độc, theo chân nàng xuống hoàng tuyền.
Tống Hành giật mình tỉnh giấc, trái tim đau nhức như vừa bị bóp nghẹt. Không biết từ khi nào, khóe mắt hắn đã ngập tràn lệ nóng, sống mũi cay xè, cổ họng cũng tắc nghẹn, chỉ có thể há miệng th* d*c, đè nén cảm xúc trong lòng.
Từng câu từng chữ trong giấc mơ ấy như tảng đá nặng tựa ngàn cân, đè lên lồng ngực hắn, khiến hắn không tài nào quên được.
Hắn tuyệt đối không thể trở thành kẻ thô bạo, hung hãn và tàn nhẫn như trong giấc mộng kia, càng không thể dùng đến thủ đoạn đê tiện để ép buộc nàng.
Hắn phải học cách tôn trọng, học cách yêu thương, giống như thời điểm khi cả hai đã trở thành Đế Hậu. Nếu không có những chuyện tệ hại kia, chưa chắc nàng đã không động lòng với hắn…
Hắn nên dùng chân tâm để đổi lấy chân tình, dùng cả tấm lòng nhiệt thành để giành được trái tim nàng, chứ không phải coi nàng là món đồ chơi trong tay, là con chim trong lồng, muốn chà đạp thế nào thì chà đạp.
Sau khi nghĩ thông suốt mọi chuyện, Tống Hành cảm thấy hơi thở cũng nhẹ nhõm phần nào. Dẫu trong lòng vẫn âm ỉ đau, nhưng nếu những chuyện trong mộng thực sự đã xảy ra, thì dù nỗi đau ấy có kéo dài trăm ngày hay ngàn ngày, đó cũng là báo ứng mà hắn đáng phải nhận.
Mùa hạ đến tự lúc nào không hay.
Tống Hành trở về Thái Nguyên. Trước cổng phủ, hắn bắt gặp bóng dáng thanh nhã quen thuộc giữa đám đông, song chỉ có thể mang theo vạn phần quyến luyến sải bước đi vào, mấy lần định quay đầu nhìn nàng nhưng đều cố gắng dằn xuống, chỉ sợ khiến nàng khó xử.
Thi Yến Vi đi bên cạnh Tống Thanh Hòa, vừa đi vừa nói cười không dứt, nàng không biết người đi phía trước là Tống Hành đang một lòng một dạ nghĩ về nàng.
Về đến Thối Hàn cư, việc đầu tiên Tống Hành làm là sai Phùng Quý đi tìm thợ thủ công lành nghề, dùng gỗ tử đàn hắn mang về từ U Châu chế thành một cây đàn tỳ bà khảm trai. Giao phó xong xuôi, lúc này hắn mới cởi giáp, vào phòng tắm, gột rửa bụi đường.
Tiết phu nhân đã chuẩn bị yến tiệc tẩy trần cho hắn, bởi vậy sau khi tắm rửa, cạo sạch râu, hắn cố ý chọn một chiếc trường bào cổ lật màu đen, dệt hoa văn chìm hình cây trúc, là kiểu mà Tống Thanh Hòa từng khen là rất hợp với hắn. Phát quan cũng đổi sang loại có gắn ngọc quý, ngoại trừ đai lưng điệp tiệp bằng vàng thì còn treo thêm một miếng ngọc bội linh thú bằng Hán ngọc, cốt để bản thân trông càng thêm phần phong nhã, tuấn tú.
Vừa trông thấy hắn, Tống Thanh Hòa đã thấy là lạ, ngẫm nghĩ một thoáng rồi dừng ánh mắt trên gương mặt tựa đóa phù dung của Thi Yến Vi, không hiểu sao lại nhớ đến một đoạn văn miêu tả cảnh con công đực đang xòe đuôi làm dáng ở trong sách.
Hình như chỉ cần Dương nương tử có mặt ở đó là Nhị huynh của nàng sẽ bày ra dáng vẻ hiền hòa, trầm ổn khác thường.
Đôi khi, Tống Hành lại khẽ nghiêng đôi mắt phượng nhìn trộm sang phía Thi Yến Vi, chỉ mong nàng không nhận ra, hoàn toàn chẳng hay biết rằng ngay lúc ấy, Tống Thanh Hòa cũng đang lặng lẽ quan sát hắn.
Ban đầu chỉ là một ý nghĩ thoáng qua khi cho rằng Nhị huynh đã động lòng với Dương nương tử, nhưng sau một hồi quan sát, Tống Thanh Hòa gần như có thể khẳng định: nhất định Nhị huynh đã nảy sinh tình ý với nàng.
Tống Thanh Hòa không muốn hành động hấp tấp, tạm thời đè nén sự háo hức trong lòng, muốn nhìn xem Nhị huynh vẫn luôn mắt cao hơn đầu, không vướng bụi trần kia sẽ dùng cách thức nào để chiếm được trái tim của Dương nương tử, liệu có dụng tâm khổ kế như trong lời kể của mấy gánh hát hay không.
Tiệc tan, Tiết phu nhân giữ riêng Tống Hành lại trò chuyện. Trước là hỏi về cuộc gặp mặt giữa hắn và sứ giả Khiết Đan tại Quỳ Châu, cùng tình hình thị sát các châu quận thuộc vùng Yên Vân; sau đó mới hỏi hắn có dự định thế nào với Thi Yến Vi.
Đôi mắt sáng của Tống Hành sẫm lại, ánh nhìn kiên định, giọng điệu nghiêm túc, thốt ra mấy chữ: “Cưới nàng làm vợ.”
Tuy Tiết phu nhân đã đoán trước được phần nào, nhưng đến lúc nghe hắn tự mình nói ra điều này, bà vẫn không khỏi thở dài, ý tứ sâu xa: “Xuất thân và gia thế của Dương nương tử hơi thấp, không thể mang lại chút ích lợi nào cho cháu. Nhị lang đã suy nghĩ kỹ chưa?”
Tống Hành gật đầu, khẩu khí cương quyết: “Đừng nói nàng là đứa bé mồ côi xuất thân từ sĩ tộc sa sút, kể cả khi nàng không thuộc lương tịch, mỗ cũng không cưới ai khác ngoài nàng. Từ năm mười lăm tuổi mỗ đã theo phụ thân chinh chiến khắp nơi, đến nay chưa từng bại trận, vậy thì cớ gì phải dùng hôn nhân để đổi lấy cái gọi là “lợi ích” mà a bà vừa nhắc đến. Dẫu không có thê tử xuất thân từ đại tộc hiển quý, mỗ vẫn có thể tranh đoạt thiên hạ.”
Tiết phu nhân đã nhìn hắn lớn lên, hiểu rõ tính nết của hắn, một khi đã quyết thì không gì lay chuyển nổi. Bà biết có khuyên thêm cũng vô ích, đã thế còn sinh ra hiềm khích tổ tôn, nên cũng đành thôi.
“Nhị lang đã quyết thế rồi, vậy a bà chúc cháu sớm được như ý nguyện.” Dứt lời, bà mượn cớ thân thể mỏi mệt, bảo hắn đã mấy ngày vất vả đường xa, chi bằng lui về nghỉ ngơi sớm.
Tống Hành rời khỏi Thúy Trúc cư, Phùng Quý đã chờ sẵn bên ngoài từ lâu.
Hắn muốn dùng Bắc châu và áo choàng lông cáo mà nước Bột Hải tiến cống đến dâng lên nữ lang trong lòng mình, nhưng vì sợ nàng suy nghĩ nhiều, nên đành dặn Phùng Quý đến khố phòng tìm thêm vài món, đợi đến ngày Đoan Ngọ thì sẽ gửi đến mỗi viện một hai món, nói là chút lễ mọn hắn chuẩn bị cho các viện nhân dịp tiết Đoan.
Phùng Quý đợi mãi mới thấy Thi Yến Vi từ thiện phòng trở về. Hắn bưng lễ vật trình lên.
“Nhân tiết Đoan Ngọ, gia chủ có chuẩn bị lễ vật đưa đến các viện, đây là phần của Dương nương tử.” Vừa sai người đặt đồ lên bàn, Phùng Quý vừa khéo léo truyền đạt ý tứ của gia chủ: “Áo choàng lông cáo này, tiểu nương tử cũng có một chiếc, còn hộp Bắc châu này vốn dĩ đầy ắp, nhưng phần lớn đã được đưa sang cho tiểu nương tử. Xem ra trong mắt gia chủ, Dương nương tử với tiểu nương tử là như nhau.”
Đây là lần đầu tiên Thi Yến Vi được nghe những lời như vậy, nên cũng thuận theo lời của Phùng Quý, tự đặt mình vào vị trí “một nửa em gái” trong mắt Tống Hành. Mãi cho đến sau này, sau vô số lần “vô tình gặp mặt” với Tống Hành, nàng mới dần cảm nhận được ý vị khác thường trong đó.
Đó là vào một buổi chiều đầu thu, Tống Hành khải hoàn trở về từ Phượng Tường, nàng đã gặp lại hắn trong vườn. Hắn khen đóa hải đường và thông thảo cài trên tóc nàng thật đẹp. Ngay sau đó, Thi Yến Vi liền bắt gặp ánh nhìn khác lạ trong mắt hắn, đó không còn là ánh nhìn của huynh trưởng đối với muội muội, mà càng giống với ánh mắt của một nam lang khi hướng về người trong lòng hơn.
Ánh mắt ấy lướt qua rất nhanh, dù Thi Yến Vi cũng chẳng thể nắm bắt rõ ràng, nhưng từ đó về sau, nàng vẫn nảy sinh vài phần cảnh giác, để rồi bắt đầu né tránh hắn.
Thi Yến băn khoăn chuyện nàng có nên rời khỏi Tống phủ, tìm nơi khác để ở không, nhưng ý nghĩ ấy vừa nhen nhóm chưa được hai ngày, thì Tống Hành đã đích thân đến tìm nàng.
Không phải đến để thổ lộ chuyện tình cảm nam nữ, mà là để hỏi nàng có định mở một cửa tiệm nào không.
Tống Hành không tiếc lời khen tay nghề của nàng, điểm tâm và trà ngọt nàng làm đều rất ngon miệng, nếu mở một cửa tiệm, ắt sẽ buôn may bán đắt.
Thực ra Thi Yến Vi đã nghĩ đến chuyện mở tiệm từ lâu, có điều nơi nàng nhắm đến là thành Cẩm Quan, lại thêm việc vừa mới đặt chân đến thế giới này, nhiều chuyện còn chưa kịp thích ứng, nên ý nghĩ đó cũng tạm thời bị gác lại.
Những gì Tống Hành vừa nói chẳng khác nào một lần nữa khơi dậy ý tưởng ấy trong đầu nàng.
Nếu có thể mở một cửa tiệm ở Thái Nguyên, tích lũy trước một chút kinh nghiệm thì cũng không tồi.
Nghĩ đến đây, Thi Yến Vi gật đầu tán thành.
Từ đó trở đi, suốt hơn một tháng sau, nàng bận đến không thể ngơi tay: tìm kiếm mặt bằng, tiếp nhận cửa tiệm, sửa sang, tuyển người, việc gì cũng phải nhúng tay. Đến ngày chính thức khai trương, vợ chồng Tống Duật và Tống Thanh Hòa đều mang lễ mừng đến ủng hộ, ngay cả Tống Hành luôn bận rộn trăm công nghìn việc cũng đến dự.
Chỉ có điều, lễ vật mà Tống Hàng mang đến có phần lạc quẻ nếu đem so với những người khác. Đó là một cây đàn tỳ bà khảm trai, đối với người làm bánh và mở trà phường như nàng thì chẳng có lấy nửa phần hữu dụng.
Nhưng nghĩ lại, hắn là người đã tặng nàng áo lông cáo trắng giữa ngày Hạ Chí, nên giờ có mang đàn tỳ bà đến mừng ngày khai trương thì cũng chẳng có gì kỳ quặc nữa.
Thi Yến Vi mỉm cười, cảm tạ một cách nhã nhặn. Nàng mời mọi người vào trong tiệm thưởng trà nếm bánh.
Từ hôm ấy trở đi, nàng bắt đầu cuộc sống hai điểm một đường: sáng rời phủ, tối mới về. Thời gian ở lại cửa tiệm kéo dài hơn, cũng dần quen với vài người bạn.
Nàng có dung mạo kiều diễm, tuy ngoài kia đã truyền tai nhau rằng nàng và phủ họ Tống có mối giao tình sâu đậm, song vẫn không thể ngăn được những nam lang trong thành ôm lòng ngưỡng mộ, rục rịch muốn thử vận may. Trong số đó, có không ít người xuất thân sang quý, mạnh dạn đến gặp Tiết phu nhân và ngỏ ý cầu thân.
Tống Hành hay tin, trong lòng vừa gấp vừa giận, cả ngày mặt nặng mày nhẹ, nhóm hạ nhân làm việc dưới trướng hắn lúc nào cũng nơm nớp lo sợ, phải để ý từng ly từng tí.
Trằn trọc đến mấy đêm, sau cùng Tống Hành vẫn cẳng thể kìm nén nổi tình cảm trong lòng, đến gõ cửa viện của Thi Yến Vi.
Thi Yến Vi thấy gương mặt đầy nôn nóng bất an của hắn, đang định mở miệng hỏi có chuyện gì gấp, thì Tống Hành đã giành trước một bước: “Ta thực sự không thể nhẫn nhịn thêm một khắc nào nữa, nhất định phải đích thân nói ra những lời này.
Lòng bàn tay hắn nóng rực, vành tai cũng đỏ ửng, đôi mắt phượng tràn đầy thành ý và thâm tình: “Từ lâu lắm rồi, ta đã đem lòng yêu thương nàng, muốn cưới nàng làm vợ.”
Thi Yến Vi bị lời hắn nói làm chấn động đến ngẩn người, mãi vẫn chưa hoàn hồn. Đợi đến khi nàng hiểu ra hắn vừa thổ lộ điều gì, thì Tống Hành đã nói tiếp về chuyện hắn si mê nàng ra sao, ngày đêm nhớ mong nàng thế nào… thậm chí không ngừng nhấn mạnh về những điều tốt đẹp nàng sẽ có được nếu như chịu gả cho hắn.
Tống Hành luôn nghĩ nàng vốn không có lý do gì để từ chối. Hắn một mực nghĩ rằng chỉ bằng tấm chân tình này, nàng ắt sẽ gật đầu đồng thuận.
Thế nhưng, dẫu trong lòng Thi Yến Vi ít nhiều rung động bởi những lời bày tỏ rất dài ấy, thì nàng vẫn chưa đến mức để tình cảm che mờ lý trí.
Công bằng mà nói, ấn tượng của nàng về hắn xưa nay vẫn không tệ, trong lòng cũng chưa từng dấy lên cảm giác chán ghét hay bài xích. Thế nhưng, chừng ấy vẫn chưa đủ để nàng nghĩ đến chuyện gả cho hắn, dẫu hắn có chân thành đến mấy, hay dốc hết lòng dạ để thổ lộ với nàng.
“Ta không thể đồng ý với ngài được.” Như không thể đối diện với sự thất vọng và chán nản trong ánh mắt hắn, Thi Yến Vi hơi nghiêng đầu, không nhìn hắn nữa, giọng nàng điềm tĩnh: “Ngài là gia chủ của Tống phủ, thân phận tôn quý, từ khi sinh ra đã sống trong nhung lụa. Một người như ngài, dĩ nhiên sẽ không bằng lòng với chế độ một vợ một chồng, trong khi ta lại không muốn cùng người khác hầu hạ một trượng phu. Ngoài chuyện này ra, trong lòng ta vẫn còn vương vấn một người, không có ý định tìm kiếm ai khác. Giờ ngài đã nghe hết những lời ta vừa nói, liệu ngài còn có thể nói rằng ngài sẽ toàn tâm toàn ý yêu ta và muốn cưới ta nữa không?”
Nửa câu đầu của nàng chỉ khiến Tống Hành trầm ngâm đôi chút, nhưng sau khi hiểu ra, hắn nghĩ rằng nếu họ cũng có thể giống như cha mẹ hắn, hoặc giống như Văn Đế và Văn Hiến hoàng hậu triều trước, một đời cầm sắt hòa hợp, cứ ở bên nhau cũng không tệ.
Nhưng nửa câu sau lại như dao cứa, nhát sau sâu hơn nhát trước, khiến người nghe đau đến không sao chống đỡ nổi.
Thảo nào dù hắn đã cố gắng rất lâu nhưng nàng vẫn cứ thờ ơ chẳng chút lay động. Thì ra, trong lòng nàng đã sớm có người khác rồi.
Tống Hành đứng đó, ngẩn ngơ mất một lúc lâu. Sau một tràng cười tự giễu, hắn đổi cách xưng hô và nói: “Mỗ chỉ muốn hỏi nàng một câu, rằng mấy tháng qua, liệu đã khi nào, hay dù chỉ một lần, nàng rung động trước mỗ?”
Khi mới đến đây và trước khi Ngân Trúc rời khỏi Tống phủ, nàng vẫn thường nhớ lại những ký ức vụn vặt đã có với Trần Nhượng, mãi chẳng thể nào buông bỏ. Thế nhưng sau đó, số lần nàng nghĩ đến anh cứ dần vơi đi. Lần gần nhất, dường như đã là chuyện của tháng trước.
Nàng không rõ chuyện này có liên quan gì đến Tống Hành hay không. Cảm giác mơ hồ, khó nắm bắt ấy khiến Thi Yến Vi nhíu mày, những ngón tay vô thức siết chặt lấy vạt áo, chậm rãi thốt ra hai chữ: “Chưa từng.”
Chỉ vỏn vẹn hai chữ ấy thôi nhưng khi nói ra, Thi Yến Vi bỗng cảm thấy cực kỳ khó khăn. Một thứ cảm xúc lạ lùng không thể gọi tên lấp đầy tâm trí nàng, khiến nàng thấy âm ỉ khó chịu.
Những lời gần như tuyệt tình của nàng như lưỡi dao khoét thẳng vào tim Tống Hằng, dập tắt hết thảy nhiệt huyết trong lồng ngực hắn. Hắn rũ mắt, nhìn nàng thật lâu, rồi như đã hạ quyết tâm, giọng khàn khàn bật ra từng tiếng: “Dương Sở Âm, nàng giỏi lắm. Từ nay về sau, mỗ sẽ không đến quấy rầy nàng nữa.”
Câu nói vừa giống như tức giận lại vừa như quyết tuyệt kia giống như những hạt mưa nhỏ xíu, rơi xuống trái tim Thi Yến Vi, cõi lòng nàng liên tục xáo động, không tài nào lắng lại được.
Hôm ấy, sau khi Tống Hành rời đi, quả thật hắn đã rất lâu không còn tìm đến nàng nữa. Mãi đến sau này, Thi Yến Vi mới nghe Tống Thanh Hòa nói: Tống Hành đã lĩnh chỉ vào Trường An thuật chức.
Đêm hôm ấy, Thí Yến Vi ôm đàn tỳ bà, khép hờ đôi mắt, ngón tay lướt nhẹ lên dây đàn, trong đầu chợt hiện lên dáng hình của một nam lang.
Trong tiềm thức, nàng cứ ngỡ đó sẽ là Trần Nhượng. Thế nhưng, khi gương mặt kia dần trở nên rõ nét… người đó lại là Tống Hành.
Thi Yến Vi giật mình mở bừng mắt. Nàng cố ép mình đàn xong khúc nhạc, sau đó uống cạn một chén trà ấm, rồi đi tắm gội, thay xiêm y, lên giường ngả đầu lên gối.
Ngày tháng lặng lẽ trôi qua. Sau bao ngày không gặp, cuối cùng Thi Yến Vi lại mơ thấy Trần Nhượng.
Khác với những lần trước, lần này anh như đến để nói lời từ biệt: “Chuyện xưa không thể vãn hồi, anh và bác trai bác gái đều mong em có thể nhìn về phía trước, Vi Vi.”
Rõ ràng Thi Yến Vi thấy anh ở ngay trước mắt nhưng tay nàng vươn mãi vẫn chẳng thể chạm tới anh được. Nước mắt không kìm được, lã chã rơi xuống, cuối cùng nàng nghẹn ngào thốt ra một chữ “được”.
Khi tỉnh mộng, lệ đã hóa thành vệt ướt loang lổ bên má. Đôi mắt vẫn còn ẩm ướt, phần trán hơi nhức mỏi vì khóc quá lâu.
Bên ngoài gió lạnh căm căm, nàng khoác chiếc áo choàng lông cáo trắng Tống Hành từng tặng. Ở cửa bên và cửa sau trà phường, nàng dựng hai mái lều nhỏ, bắc mấy nồi canh ngọt, cháo nóng, phát cho người ăn xin và những kẻ nghèo khó.
Từ ngày trà phường đi vào nề nếp, nàng đã dặn các tiểu nhị: sau khi đóng cửa, cơm canh còn thừa phải mang ra phía sau, chia cho những người cơ hàn.
Lại thêm một tháng trôi qua. Ngay trước thềm năm mới, Tống Hành trở về Thái Nguyên.
Sau lần bị thích khách ám sát, lại thêm nhiều ngày rong ruổi đường xa, thân hình hắn gầy đi trông thấy, sắc mặt cũng hằn rõ vẻ mỏi mệt tiều tụy. Tiết phu nhân vừa nhìn đã đau lòng không thôi.
Ngay hôm ấy, bà đặc biệt mở một bàn tiệc lớn, đón gió tẩy trần, nghênh đón hắn hồi phủ.
Nhưng Tống Hành vẫn giữ dáng vẻ lãnh đạm, chẳng hứng thú, chỉ lặng lẽ ngồi nơi góc vắng, nâng chén uống rượu, mắt chẳng buồn liếc đến ai trên bàn tiệc.
Vậy mà dù cố đè nén đến đâu, rốt cuộc hắn vẫn không nhịn được, lén nhìn về phía nàng giữa đám đông. Đó là nữ lang mà hắn ngày đêm nhung nhớ. Cho dù nàng từng nói trong tim đã có người khác, cho dù nàng thừa nhận chưa từng động lòng vì hắn, thì hắn vẫn chẳng thể quên được nàng.
Càng muốn khống chế tình cảm của mình, hắn lại càng không sao buông bỏ. Như thể đã trúng phải một loại cổ tình nàng vô tình hạ xuống, dù thế nào cũng không thể thôi nghĩ về nàng, không thể dứt được nỗi nhớ nhung, huống hồ là ngừng yêu nàng.
Mãi đến đêm gặp thích khách ở Trường An, khi Phùng Quý liều chết đá tung cửa phòng, gọi hắn tỉnh lại, Tống Hành mới thật sự cảm nhận được lằn ranh sinh tử. Lửa đã bốc lên dữ dội, trong khoảnh khắc ngắn ngủi ấy, hắn bỗng thấy sợ – sợ cái chết, sợ không thể hoàn thành tâm nguyện của phụ thân, sợ chẳng thể thực hiện được những hoài bão trong lòng, và hơn hết… sợ rằng đời này sẽ không còn cơ hội gặp lại nàng.
Thôi thì, dù trong tim nàng có người khác, thì đã sao? Chỉ cần nàng chịu dành cho hắn một góc nhỏ, chỉ cần nàng chấp nhận hắn, dù với bất kỳ thân phận nào… hắn cũng cam tâm tình nguyện.
Tống Hành liếc nhìn nàng nhiều lần, rốt cuộc cũng bị nàng bắt gặp một lần. Thế nhưng khi ánh mắt hai người giao nhau, trong mắt nàng lại mang theo vài phần lảng tránh, dường như không dám nhìn thẳng vào hắn.
Mấy chục ngày không gặp, trái tim vốn đã bình lặng của nàng lại vì hắn mà gợn lên những gợn sóng lăn tăn, đôi má bất giác ửng hồng, nàng vội cúi đầu, nâng chén trà uống liền hai ngụm.
Hắn từng nói sẽ không đến tìm nàng nữa, và quả thực hắn đã làm được. Chỉ mong từ nay về sau, hắn vẫn có thể giữ vững lời hứa ấy. Thi Yến Vi thầm nghĩ vậy, nhưng đi cùng nỗi yên tâm lại là một cảm giác xót xa khó tả.
Tống Hành ngồi ở ghế thượng tọa, im lặng uống rượu, chịu đựng cho đến khi tiệc tan. Hắn dùng ánh mắt ra hiệu cho Phùng Quý. Hiểu ý chủ nhân, Phùng Quý liền sai người mang một chiếc đèn lồng minh giác đến, mượn danh nghĩa của Tiết phu nhân trao lại cho Thi Yến Vi.
Thi Yến Vi có mang theo đèn lồng, nhưng dĩ nhiên là không thể sánh với chiếc đèn tinh xảo mà Phùng Quý đã cho người mang đến. Dù trong lòng có hơi lấn cấn nhưng sau một hồi suy nghĩ, nàng vẫn đón nhận tấm lòng của “Tiết phu nhân”.
Nữ lang mặt tròn như mâm bạc thấy nàng xách đèn liền cười nói: “Dương nương tử không cần trả lại chiếc đèn này đâu, chỉ là đèn nương tử cầm đã cũ quá rồi, chi bằng để em mang đi sửa, sau này để người bên Thúy Trúc cư dùng cũng được.”
“Vật tận kỳ dụng, như thế cũng tốt.” [2] Thi Yến Vi nói xong, cầm đèn đi ra ngoài.[2]
[2] “” (vật tận kỳ dụng): để cho vật được sử dụng đến cùng, phát huy hết công dụng vốn có của nó.
Viện nàng ở nằm sâu trong hoa viên, không được như chỗ ở của mấy vị chủ tử trong phủ, vì vậy phải đi một đoạn khá xa mới đến nơi.
Đang giữa mùa đông giá rét, trời lạnh thấu xương, mây đen che khuất ánh trăng. Thi Yến Vi quấn chặt áo choàng gấm, chầm chậm bước tới.
Đôi giày đế cao màu trắng tinh giẫm trên con đường đá phát ra những tiếng động khe khẽ. Bỗng một cơn gió lạnh thổi qua, mang theo hương mai nhàn nhạt, xen lẫn mùi rượu thoang thoảng.
Lúc ngồi trên bàn tiệc, Thi Yến Vi chưa từng chạm môi vào bất kỳ chén rượu nào, vậy mùi rượu này từ đâu mà đến? Đang lúc nghi hoặc, nàng ý thức được có điều bất thường, bèn giơ đèn lên, quay đầu nhìn ra phía sau.
Một bóng người cao lớn như núi đột ngột xuất hiện trong tầm mắt. Bằng phản xạ, nàng lập tức liên tưởng đến một người. Khi ánh đèn chiếu rõ gương mặt với những đường nét tuấn tú quen thuộc, nàng liền gọi thử một tiếng: “Gia chủ.”
Tống Hành không còn kìm nổi ngọn lửa khát khao và nỗi nhớ triền miên, sải bước hướng về phía nàng. Không để nàng kịp phản ứng, cánh tay rắn rỏi đã vươn ra, kéo nàng siết chặt vào lòng.
“Ta yêu nàng, Âm Nương. Ta có thể vì nàng mà cả đời không nạp thiếp, chỉ một lòng một dạ với nàng; cho dù trong tim nàng đã có người khác cũng chẳng sao, chỉ cần nàng chịu nhường cho ta một góc nhỏ để chen vào… chỉ thế thôi cũng đủ. Dù nàng chưa thể mở lòng ngay lúc này, ta vẫn có thể đợi, ta có đủ kiên nhẫn…”
“Nàng thích tự do, thích được tôn trọng, những điều đó ta đều nghe theo nàng. Sau này nếu chúng ta thành thân, ta tuyệt đối sẽ không trói buộc nàng; nàng muốn buôn bán, muốn du ngoạn, muốn cứu giúp dân nghèo, tất cả ta đều để nàng làm theo ý mình. Ta thật lòng với nàng, xin nàng đừng nhẫn tâm đẩy ta ra, được không?”
Khi nói những lời ấy, đôi mắt phượng sâu thẳm của hắn chứa đựng biết bao sự chân thành, tha thiết và cả cầu khẩn. Ánh nhìn ấy khiến trái tim Thi Yến Vi run lên, không sao nói được câu từ chối.
Thế nhưng lý trí lại nhắc nhở nàng rằng: những lời đường mật, những lời thề non hẹn biển ấy, với một quyền quý như hắn, liệu có đáng tin? Bởi họ có thể dễ dàng nuốt lời với những người ở tầng lớp thấp hơn, mà không phải trả bất kỳ cái giá nào.
Thi Yến Vi trầm ngâm rất lâu, cuối cùng vẫn không thể đáp ứng, nhưng cũng không cự tuyệt thẳng thừng, chỉ nói hiện giờ nàng vẫn chưa muốn gả chồng.
Nghe vậy, Tống Hành không khỏi thấy hụt hẫng, nhưng nghĩ lại, thái độ của nàng đã không còn cứng rắn như lần trước, hiển nhiên không phải là hoàn toàn không muốn cho hắn một cơ hội.
Tinh thành sở chí, kim thạch vi khai. [3] Chỉ cần hắn một lòng một dạ đối với nàng, nhất định sẽ khiến nàng rung động và đón nhận hắn.[3]
[3] “Tinh thành sở chí, kim thạch vi khai” (Hậu Hán Thư – Quảng Lăng Tư vương Kinh truyện). Dịch nghĩa: Tâm hết mực chân thành có thể khiến vàng đá mở ra. Nguồn chú thích: https://www.dkn.tv
Nghĩ vậy, lòng Tống Hành mới nhẹ nhõm đôi chút. Hắn đánh bạo đưa tay nâng khuôn mặt nàng lên, đặt một nụ hôn nhẹ tựa chuồn chuồn lướt nước trên trán nàng.
Thi Yến Vi còn chưa kịp định thần thì Tống Hành đã cúi người, khom lưng giúp nàng chỉnh lại áo choàng, cẩn thận buộc chặt dây áo: “Trời lạnh thế này, nàng ra ngoài phải giữ gìn, chớ để nhiễm phong hàn. Ta đưa nàng về.”
Nàng vốn định từ chối, nhưng lời đến cổ họng như bị thứ gì đó níu lại, cuối cùng nuốt ngược vào trong.
Tim bất giác đập nhanh hơn một nhịp, nàng khẽ “ừ” một tiếng, rồi xoay người tiếp tục bước về phía trước.
Tống Hành không sánh bước cùng nàng, mà lặng lẽ đi phía sau, hệt như một viên thị vệ trung thành hộ tống chủ tử mình.
Từ đêm ấy trở đi, tâm tư của Thi Yến Vi dành cho Tống Hành cũng từ từ thay đổi. Tình cảm của hắn như một hạt giống âm thầm cắm rễ trong lòng nàng, ngày một vươn chồi, bén rễ sâu hơn.
Ngày nối ngày, hễ có thời gian rảnh là Tống Hành lại hỏi thăm tin tức của nàng từ Phùng Quý. Lâu dần, Phùng Quý đã chẳng còn là tiểu tư hầu cận thân thiết nữa, mà biến thành đôi mắt, đôi tai để hắn nghe ngóng tin tức của nàng.
Tống Hành dường như không biết mỏi mệt, cách hai ba ngày lại tìm đủ cớ để được tiếp xúc hay chạm mặt Thi Yến Vi. Nàng thừa hiểu những lần gặp gỡ tưởng chừng vô tình ấy thực chất đều là do hắn sắp đặt, song chưa từng một lần bóc trần. Dù sao hắn cũng chưa làm điều gì quá đáng, nên nàng cũng mặc kệ hắn.
Không rõ từ khi nào, nàng đã bắt đầu mong chờ lần gặp mặt kế tiếp, chờ xem hắn sẽ dùng cách thức gì để xuất hiện trước mặt mình.
Sau Tết, tin Giang Triều ép Thánh nhân thoái vị nhường ngôi ngay trong cung Đại Minh vào đêm ba mươi lan khắp Thái Nguyên. Lúc ấy, Tống Hành đã thống lĩnh binh mã tiến về Trường An.
Chỉ trong hơn một tháng ngắn ngủi, quân Hà Đông thế như chẻ tre, lần lượt hạ Hoa Châu, Đồng Quan rồi đánh chiếm Trường An, sau đó tiếp tục kéo quân về phía Tây, mưu đồ đoạt lấy Lạc Dương.
Thượng tuần tháng Ba, tướng trấn thủ Lạc Dương buông đao, đầu hàng vô điều kiện, toàn bộ Thần Đô rơi trọn vào tay Tống Hành.
Tống Hành ở lại Lạc Dương hơn mười ngày để xử lý mọi việc lớn nhỏ, nhưng trong khoảng thời gian ấy vẫn không quên sai Phùng Quý vào thành tìm mua một con mèo con đến từ Đại Thực quốc.
Phùng Quý vừa nghe dặn đã hiểu ngay, gia chủ tìm vật hiếm ấy là để lấy lòng ai rồi.
Ngày Tống Hành trở về Thái Nguyên, người trong phủ vẫn như mọi lần, ra tận cổng lớn nghênh đón hắn.
Tống Hành đảo mắt nhìn qua đám đông nhưng lại không thấy Thi Yến Vi đâu, lòng hắn không khỏi dấy lên lo lắng. Đợi đến khi vào phủ, hắn liền gọi Phùng Quý tới tra hỏi.
Phùng Quý hạ giọng bẩm: “Dạo này Dương nương tử với Ngân Chúc đang chạy vạy khắp nơi để tìm mua trà Minh Tiền, [4] chắc sẽ về muộn hơn bình thường.”[4]
[4] Trà Minh Tiền (): là loại trà được hái trước tiết Thanh Minh, nổi tiếng bởi hương vị tươi non, thanh khiết, được xem là thượng phẩm trong các loại trà.
Tống Hành khẽ “ừm” một tiếng, phất tay cho lui. Sau khi tắm rửa xong, hắn đến tham dự dạ yến, nhưng suốt cả yến tiệc đêm đó, hắn luôn mang một vẻ trầm tư. Phải đến khi Phùng Quý cho người đến báo rằng Thi Yến Vi đã trở về phủ, hắn mới giãn mày, đứng dậy rời tiệc.
Phùng Quý đã chờ sẵn bên ngoài từ lâu, trong lòng ôm một con mèo nhỏ.
Tống Hành hít sâu một hơi, trấn tĩnh lại rồi đón con mèo từ tay Phùng Quý, sải bước đi thẳng tới viện của Thi Yến Vi.
Thi Yến Vi vừa trải qua một ngày mệt nhọc, lúc đang soi gương tháo trâm thì ngoài cửa bỗng vang lên tiếng gõ nhẹ. Nàng ra ngoài, đứng giữa sân cất giọng hỏi là ai, thì lại nghe tiếng mèo kêu khe khẽ.
“Dương nương tử, trên đường về, gia chủ nhặt được một con mèo nhỏ, muốn hỏi nương tử có muốn nuôi không.”
Tiếng mèo kêu non nớt, nghe như đang mè nheo trong lòng người. Thi Yến Vi vốn mềm lòng, dĩ nhiên không nỡ, bèn ra mở cửa.
Tống Hành vừa trông thấy nàng thì ngẩn ra, đoạn lóng ngóng ôm con mèo đưa sát đến gần nàng.
Đêm hè trăng sáng thanh trong, Thi Yến Vi mượn ánh nguyệt quang dịu dàng để nhìn rõ con mèo trong tay hắn. Đó là một con mèo Ba Tư toàn thân tuyết trắng, đôi mắt xanh biếc như hai viên bảo thạch.
Ở thời hiện đại, mèo Ba Tư vốn đã thuộc hàng đắt đỏ, huống chi là thời cổ đại, vật chất khan hiếm, phải mất bao công sức mới có thể đưa nó từ Đại Thực quốc xa xôi theo con đường tơ lụa về tới Trung Nguyên. Đó là chưa kể, dọc đường còn có rất nhiều con chết vì không hợp khí hậu, khiến giá trị đội lên gấp bội, dù có tiền cũng chưa chắc mua nổi.
Một con mèo quý giá thế kia, nếu bị bỏ mặc giữa phố thì cũng được người ta tranh nhau giành lấy, đâu dễ để Tống Hành “nhặt” được.
Thi Yến Vi chẳng buồn vạch trần lời nói dối vụng về ấy. Nàng mỉm cười, uyển chuyển từ chối: “Con mèo này nhìn rất giống con mèo trong viện của Nhị nương, chi bằng gia chủ hãy mang tặng nàng ấy, để Đạp Vân có bạn chơi cùng.”
Tống Hành nghe vậy, sắc mặt hơi sượng, đành ho khan hai tiếng để lấy lại bình tĩnh, rồi nói tiếp: “Nương tử cũng đang ở trong phủ, muốn ôm nó sang tìm Nhị nương và Đạp Vân chơi lúc nào mà chẳng được? Viện của nàng lại không có người hầu, nhìn hơi vắng vẻ, có nó làm bạn chẳng phải sẽ tốt hơn sao?”
Nói rồi, hắn dứt khoát nhét con mèo vào lòng nàng. Con mèo nhỏ dường như rất có linh tính, như nhận ra nữ lang trước mắt là người dịu dàng, liền cất tiếng “meo meo” phụ họa, làm trái tim Thi Yến Vi cũng nhũn cả ra.
Tống Hành thấy nàng có vẻ đã xiêu lòng, liền thuyết phục thêm: “Nương tử nhìn xem, nó cũng thích nàng lắm đấy. Nếu nàng không chịu giữ nó thì chỉ còn gã thô lỗ là ta đây phải nuôi nó thôi. Nhưng tính ta lại không được tinh tế chu toàn, e sẽ làm nó chịu thiệt.”
Mèo Ba Tư vốn cần sự chăm sóc cẩn thận. Thi Yến Vi ngẫm nghĩ một lúc, cuối cùng không nỡ từ chối, đành “miễn cưỡng” nhận lấy.
Nàng ôm con mèo nhỏ xíu vào lòng, như ôm một nhúm bông trắng tinh nhẹ hẫng, nghiêm túc nói: “Gia chủ đã tặng nó cho ta, thì về sau dù muốn đòi lại, ta cũng sẽ không đồng ý đâu đấy.”
Tống Hành đáp một cách sảng khoái: “Nương tử yên tâm, đã tặng nó cho nàng thì từ nay về sau nó chính là mèo của nàng, nào có chuyện ta đòi lại nữa chứ.”
“Trời cũng đã khuya, thiếp không dám giữ chân hai vị lang quân thêm nữa.” Thi Yến Vi ôm con mèo, nói xong liền lui vào trong, không chút nể tình đóng sập cửa lại.
Con mèo ấy rất quấn người, Thi Yến Vi bế nó trong tay, vừa v**t v* vừa nghĩ tên cho nó. Nghĩ đi nghĩ lại, cuối cùng nàng gọi nó là “Lệ Chi”.
Lệ Chi không nghịch ngợm như Đạp Vân, nhưng cũng không hẳn lười biếng. Mỗi ngày nó chỉ quanh quẩn chơi đùa trong sân viện gần nhà, bởi thế mỗi lần nàng đi tìm nó cũng chẳng tốn bao nhiêu công sức.
Ngày tháng cứ thế trôi qua, Thi Yến Vi dần nhận ra dụng ý thực sự của Tống Hành khi tặng nàng con mèo này. Hắn làm vậy không chỉ để lấy lòng nàng, mà còn để có thêm một cái cớ nếu muốn đường hoàng đến tìm.
Khi thì viện cớ giúp nàng tìm Lệ Chi khi nàng từ trà phường trở về phủ, khi thì viện cớ tới thăm con mèo nhỏ mà hắn đã cứu về, nhân tiện mang cho nó đủ thứ đồ ăn như tôm luộc, cá khô đã gỡ xương, ức gà luộc…
Thi Yến Vi nể mặt Lệ Chi, chẳng buồn lật tẩy hắn, thậm chí còn đối đãi với hắn ôn hòa hơn mấy phần.
*
Editor có lời muốn nhắn nhủ:
Mình đang phấn đầu ngày gõ 3k chữ hoàn thành trước kỳ nghỉ lễ ~
Giam Nàng Trong Trướng - Tụ Tụ Yên
Đánh giá:
Truyện Giam Nàng Trong Trướng - Tụ Tụ Yên
Story
Chương 93: Phúc lợi 2 – Nếu như (2)
10.0/10 từ 20 lượt.