Top 7 Bài văn phân tích nhân vật Uy-lit-xơ trong đoạn trích "Uy-lít-xơ trở về" (Ngữ văn 10) hay nhất

Uy-lít-xơ trong đoạn trích "Uy-lít-xơ trở về là một nhân vật hiện lên sự khí thế, tự hàc. Những dòng sử thi được viết lên trong đoạn trích mang ;ại âm vang oai ... xem thêm...

  1. Chúng ta rồi sẽ nhắc mãi về những thời kì hào hùng của lịch sử dân tộc khi mà âm vang của nó nằm trọn trong những khúc sử thi. Có lẽ, chỉ có ở sử thi, con người mới hiện lên một cách khí thế và oai hùng như vậy, bởi một nhân vật thôi nhưng đại diện cho cả thời đại mà nó ra đời. Uy-lít-xơ là một nhân vật như vậy. Trong con người chàng có trí tuệ và trái tim của cả đất nước Hy Lạp thời cổ đại. Tìm hiểu về “Ô-đi-xê” cũng như Uy-lít-xơ, ta mới thấy được một Hô-me-rơ tài năng và tâm huyết với bộ sử thi của dân tộc.


    “Ô-đi-xê” ra đời tại một đất nước có nền văn minh rực rỡ, khi con người đã thoát khỏi chế độ công xã thị tộc nhiều dã man. Đó là vào khoảng thế kỉ VIII TCN, nhân dân Hy Lạp chuyển mình sang chế độ nhà nước chiếm hữu nô lệ. Con người giờ đây sống với những khát vọng lớn lao, những ước mơ về hạnh phúc, trí tuệ. Người hát rong Hô-me-rơ đã gom lại tinh thần ấy của dân tộc trong những khúc sử thi của mình. Từ Iliade đến Odyssey, đều là hiện thân của những người anh hùng với sức mạnh, trí tuệ và tâm hồn cao đẹp. Với 12110 câu thơ chia thành 24 khúc ca, sử thi Odyssey ấy thực sự là những khúc khải hoàn để ngàn đời sau còn hướng về.


    Uy-lit-xơ là nhân vật xuyên suốt trong cả hai bộ sử thi của Ho-me-rơ. Nếu ở Iliade là hành trình người dũng sĩ chiến đấu tại thành Troy, thì “Ô-đi-xê” lại là con đường trở về. Uy-lit-xơ vẫn giữ cho mình bản lĩnh và trí tuệ như lúc chàng chiến đấu. Có điều ở khúc sử thi này, ta thấy nhiều hơn là khát vọng về cuộc sống hạnh phúc, khát vọng được đoàn tụ trở về. Sau khi chiến thắng ở Troy, Uy-lit-xơ cùng đoàn quân của mình trở về xứ sở. Nhưng hành trình chưa dừng ở đó. Đoàn quân ấy vượt qua cửa ải của tên khổng lồ “một mắt” Polyphemus, mụ phù thuỷ Circe, hai con quái vật Charybdis và Scylla và cả nàng tiên Calypso xinh đẹp. Không dừng ở đó, Uy-lit-xơ còn phải đối mặt với thử thách của lòng người, là người vợ thân yêu của chàng nơi quê nhà nghi ngờ sự xuất hiện của chàng. Qua hàng loạt thử thách ấy, Uy-lit-xơ đã trở lại được cuộc sống với gia đình hạnh phúc sau hai mươi năm lưu lạc. Phải được đặt trong hoàn cảnh khắc nghiệt ấy, trí tuệ, ý chí, bản lĩnh của Uy-lít-xơ mới hiện lên một cách rõ ràng.


    Với Uy-lit-xơ, trước hết ta phải nhắc đến trí tuệ hơn người của chàng. Trí tuệ ấy từng được Hô-me-rơ gọi là sánh ngang với thần Zues bởi chàng là người kế tục của Achile. Hô-me-rơ đã để nhân vật của mình đối diện với những thử thách mà không thể dùng sức lực vượt qua. Tiêu biểu là kế sách “chẳng có ai” khi muốn vượt qua tên khổng lồ một mắt Polyphemus. Giá sử không có mưu mẹo ấy của chàng, có lẽ cũng sẽ chẳng có sự trở về của Uy-lit-xơ. Cũng nhờ trí tuệ hơn người mà Uy-lit-xơ cùng con trai tiêu diệt được những tên cầu hôn vợ nàng và trừng trị đám giai nhân phản bội. Pê-nê-lốp vì nghi ngờ người trước mặt nên đã nghĩ ra kế sách dùng chiếc giường bí mật để thử lòng chồng, Uy-lit-xơ cũng nhanh chóng vượt qua. Trí thông minh chính là vũ khí đắc lực giúp cho chàng vượt qua các ải gian nan. Viết về trí tuệ siêm phàm ấy, Hô-me-rơ muốn hướng về ca ngợi con người trong công cuộc chinh phục vũ trụ, phải cần nhất là trí tuệ. Đó là phẩm chất mà con người Hy Lạp cổ đại đề cao và trân trọng nhất.


    Đến với “Ô-đi’xê”, người ta không còn thấy những khát vọng chinh phục, những ước mơ chiến thắng. Con người ta quay trở về với những tình cảm tốt đẹp từ tận trái tim. Trong con người con Uy-lit-xơ chính là những ánh sáng của tình cảm cao đẹp ấy. Thiêng liêng nhất trước hết là tình cảm dành cho quê hương xứ sở. Sau những chiến công lừng lẫy mà gian khổ, chàng cùng bạn bè trở về quê hương mang theo nỗi nhớ mong về xứ Ithaque ruột thịt, cũng là động lực chàng vượt qua khó khăn thử thách. Bằng chứng là khi đến xứ sở của người Lotobophagio, chàng đã nhất quyết không ăn một thức ăn nào, bởi nó sẽ làm chàng quên đi mảnh đất yêu thương của mình. Chàng muốn giữ trọn tình yêu ấy trong tim cho đến tận cùng hơi thở. Cũng bởi vậy mà đứng trước hòn đảo của nàng Calypso, lòng chàng lại đau đáu về quê hương hơn bao giờ hết. Bởi nơi đất khách này thật đẹp quá, lại làm chàng nhớ về quê cha đất tổ cũng êm ấm tình thương. Và quan trọng hơn cả, sau hai mươi năm xa quê trở về, nàng đã hôn lên mảnh đất Ithaque một cách trân trọng và hạnh phúc nhất. Là một người con của xứ sở, chưa bao giờ lòng chàng vơi bớt tình yêu cho mảnh đất này.


    Không chỉ có một tình yêu tràn ngập cho chốn quê nhà, tình cảm gia đình cũng là thứ mà Uy-lit-xơ trân trọng nhất. Có thể nói, suốt chặng đường trở về của Uy-lit-xo luôn có hình bóng giai nhân say đắm chàng. Là mụ phù thủy Circe, là nữ thần Calypso xinh đẹp sẵn sàng cho chàng sự bất tử hay nàng công chúa Nausicaa quyến rũ. Nhưng không ai có thể thay thế cho nàng Pê-nê-lốp trong trái tim của chàng. Không hề có một phút rung động, chàng vượt qua mọi thử thách để trở về cùng người vợ thân yêu. Tình cảm gia đình ấy tạo nên sự chung thủy trong trái tim người dũng sĩ, để chàng hiểu được tấm lòng người vợ, vượt qua được thử thách của nàng mà hướng tới hạnh phúc.


    Trong con người Uy-lit-xơ ấy, không chỉ có những tình cảm bình dị đời thường, mà vẫn ẩn chứa cả khát vọng cao đẹp, đi liền với ý chí và sức mạnh. Hành trình tuy là trở về nhưng lại không thiếu những thử thách gian nan. Phải là một Uy-lit-xơ có khát vọng mạnh mẽ, có ý chí hơn người mới có thể vượt qua. Trong trái tim và trí óc của chàng là ngọn lửa của khát vọng trở về, khát vọng được chinh phục thiên nhiên và chinh phục chính mình. Con người sử thi vẫn ôm trong mình nỗi khát vọng lớn lao không bao giờ thay đổi.


    Thiên sử thi khép lại, Uy-lit-xơ đến với chúng ta bằng trí tuệ siêu phàm, bằng tình cảm cao đẹp và ý chí ngút trời. Hành trình trở về của Uy-lit-xơ phải chăng cũng là hành trình con người về với bản chất của chính mình. Hô-me-rơ viết “Ô-đi-xê’, chính là viết nên những khát vọng chân chính nhất của người dân Hy Lạp cổ đại thời bấy giờ. Những phảm chất ấy là điều thiết yếu để con người xây dựng nên một nền văn minh mới.


    Bằng cách đặt nhân vật vào những khó khăn thử thách, xây dựng nhân vật qua lời nói và hành động, Hô-me-rơ đã khắc nên một tượng đài Uy-lit-xơ còn sừng sững đến ngày hôm nay.

    Ảnh minh hoạ
    Ảnh minh hoạ

  2. Có thể nói rằng với đoạn trích “Uy-lít-xơ trở về” của Hô-me-rơ đã cho thấy vẻ đẹp trí tuệ và tình yêu chung thủy của chàng đối với người vợ đã xa cách hàng chục năm. Không sai chút nào khi nói chàng cũng chính là đại diện cho vẻ đẹp trí tuệ của cộng đồng.


    Chính bằng tình yêu quê hương, tình yêu gia đình cùng với lòng dũng cảm, trí tuệ sắc sảo, Uy-lít-xơ lúc này đây dường như cũng đã vượt qua muôn vàn khó khăn, trắc trở để về bên gia đình thân yêu. Nhất là khi chàng đã đặt chân lên mảnh đất thân yêu, chàng lại phải đối mặt với 108 tên cầu hôn hung hãn, chúng luôn tìm mọi cách để chiếm đoạt tài sản của gia đình chàng. Thế nhưng chính với sự thông minh, sự giúp sức của những người khác thì chàng như cũng đã tiêu diệt được chúng. Thế nhưng bước tiếp theo nữa chính là thử thách của người vợ Pê-nê-lốp, vì từ khi Uy-lít-xơ đi thì trái tim nàng đã đóng kín.


    Khi trở về sau khi đánh đuổi bọn cầu hôn dù vô cùng nhớ vợ, và muốn đoàn tụ cùng gia đình nhưng Uy-lít-xơ dường như cũng cứ vẫn hết sức kiên nhẫn đợi chờ những hành động âu yếm, tình cảm của vợ, chàng không vồ vập, không yêu cầu vợ phải tin mình ngay. Lý do vì chàng hiểu vợ mình là người vô cùng thận trọng. Thông qua đây người ta cũng luôn luôn hiểu được sự kiên nhẫn của Uy-lít-xơ được đối sánh với nhũ mẫu Ơ-ri-cle và thêm với đó chính là một người con trai Tê-lê-mác. Nhân vật nhũ mẫu đã nhiều lần khẳng định đó là Uy-lít-xơ để Pê-nê-lốp yên tâm, thậm chí con trai nàng Tê-lê-mác lúc này đây dường như cũng cứ còn nổi cáu với mẹ: “Mẹ ơi, mẹ thật tàn nhẫn, và lòng mẹ độc ác quá chừng”. Thế nhưng mọi người càng hối thúc bao nhiêu thì Pê-nê-lóp càng thận trọng bấy nhiều. Vfa nàng đáp lại như hờ hững với Uy-lít-xơ, và chàng lúc này cũng vô cùng kiên nhẫn đợi chờ người vợ thân thương và nói: “Đừng làm rầy mẹ, mẹ còn muốn thử thách cha ở tại nhà này. Thế nào rồi mẹ con cũng sẽ nhận ra, chắc chắn như vậy”. Địch thì là phong thái, phẩm chất của một bậc anh hùng, khi chỉ đến khi Pê-nê-lốp thừa nhận mình, chàng mới giải thích rõ lí do.


    Không chỉ dừng lại ở đó thì khi Pê-nê-lốp chưa nhận ra mình, Uy-lít-xơ còn tỏ ra giận dỗi và vô cùng lo âu. Có thể thấy được đây cũng là nét tâm lí thường thấy của những người chồng khi xa nhà đã lâu mà khi trở về lại không nhận. Nhất là sau khi đã rũ bỏ lớp quần áo bẩn thỉu, thay bộ quần áo mới, Uy-lít-xơ trông “đẹp như một vị thần”, nhưng Pê-nê-lốp vẫn kiên định không nhận chàng. Thực sự Uy-lít-xơ vô cùng đau khổ mà than với vợ rằng: “Khốn khổ! Hẳn là các thần trên núi Ô-lem-pơ đã ban cho nàng một trái tim sắt đá hơn ai hết trong đám đàn bà yếu đuối, vì một người khác chắc không bao giờ có gan ngồi cách xa chồng như thế,…”. Và cũng lúc này đây chàng đã đưa ra một yêu cầu hết sức khôn ngoan để thử người vợ của mình đó chính là “Già hãy kể cho tôi một chiếc giường để tôi ngủ một mình, như bấy lâu nay, vì trái tim trong ngực nàng kia là sắt”. Lúc này đây chàng đã vô cùng ngạc nhiên, sửng sốt khi Pê-nê-lốp yêu cầu nhũ mẫu mang chiếc “giường kiên cố” ra cho Uy-lít-xơ nằm. Thực sự tâm trạng chàng vô cùng âu lo, bởi đó là chiếc giường không thể di chuyển được và nếu mang được nó ra tức là nàng Pê-nê-lốp đã không còn chung thủy với chàng và Uy-lít-xơ sẽ mất tất cả. Chàng sợ hãi hơn bao giờ hết.


    Uy-lít-xơ cũng đã nhanh chóng kể những đặc điểm, chi tiết đặc biệt của chiếc giường với giọng điệu lo âu “chột dạ” mà rằng “Nếu không có thần linh giúp đỡ thì dù là người giỏi nhất cũng khó lòng làm được việc này” “Đây là chiếc giường kì lạ, kiến trúc có điểm rất đặc biệt, do chính tay tôi làm lấy chứ chẳng phải ai”. Tiếp theo đó thì chàng bắt đầu kể ra những đặc điểm của nó, bí mật mà chỉ hai vợ chồng chàng mới biết. Khi nghe những lời chồng kể chi tiết, rành mạch Pê-nê-lốp như vỡ òa trong hạnh phúc, nàng vui sướng lắm và lúc đó mới nhận ra Uy-lit-xơ.


    Và người đọc có thể thấy được cũng chỉ trong một đoạn trích ngắn, nhưng tâm trạng của Uy-lít-xơ đã được bộc lộ một cách đầy đủ, với vô vàn cung bậc cảm xúc khác nhau. Tất cả điều này dường như cho thấy tình yêu gia đình vô bờ bến, đồng thời bộc lộ những vẻ đẹp phẩm chất của chàng. Bức tranh tâm trạng Uy-lít-xơ được tái hiện còn cho thấy tài năng miêu tả tâm lí bậc thầy của Hô-me-rơ đấy.

    Ảnh minh hoạ
    Ảnh minh hoạ
  3. Sử thi Ô-đi-xê - một tác phẩm nổi tiếng trong nền văn học của Hy Lạp, một tác phẩm được chắp bút bởi tác giả Hô-me-rơ, nội dung kể về một cuộc hành trình trở về quê hương và đoàn tụ với gia đình của chàng Uy-lít-xơ sau khi hạ thành Tơ-roa. Đoạn trích "Uy-lít-xơ trở về" đã tái hiện lại cảnh đoàn tụ của gia đình Uy-lít-xơ và đặc biệt tác giả đã vô cùng thành công trong việc miêu tả diễn biến tâm trạng của Uy-lít-xơ, tạo ấn tượng cho người đọc.


    Để trở về quê hương, Uy-lít-xơ đã đóng giả làm người hành khất, chàng còn nhận ra được âm mưu của bọn người xấu, bọn cầu hôn muốn chiếm đoạt tài sản của gia đình chàng. Chàng bày mưu tính kế, tiêu diệt được kẻ thù, chiến thắng tất cả và trở về ngôi nhà của mình vẫn trong hình hài người hành khất. Uy-lít-xơ kiên nhẫn chờ đợi sự đón tiếp của người vợ, chàng cũng mặc cảm với chính mình, bởi lúc này người chàng mặc bộ quần áo "bẩn thỉu, rách rưới", nhưng không nguôi nỗi mong ngóng người vợ thân yêu nhận ra mình.


    Trước sự lạnh nhạt của người vợ, chàng đã vô cùng đau xót, nhưng vẫn bình tâm, chờ đợi, bởi chàng hiểu người vợ của mình. Chàng có một chút tủi hờn khi mà người vợ đứng xa mình, còn không có ý định nói chuyện với mình. Khi Tê-lê-mác - người con trai yêu dấu đã lên tiếng trách móc mẹ vì "tàn nhẫn, độc ác", không chịu nhận cha, nhưng Uy-lít-xơ đã ngăn con làm điều đó, chàng đã nhẫn nại, mỉm cười với con. Sau khi tắm rửa xong, ai ai cũng phải công nhận chàng "đẹp như một vị thần", ấy vậy mà người vợ của chàng vẫn thờ ơ, Uy-lít-xơ đã không khỏi tủi hờn trước trái tim "sắt đá" của vợ mình.


    Chàng giận dỗi, rồi sau đó gợi ý cách chứng minh mình là chồng của nàng. Chàng nhờ nhũ mẫu kê riêng một chiếc giường để ngủ riêng. Chàng đã không khỏi bất ngờ và giật mình khi nghe chính người vợ của mình bảo nhũ mẫu khiêng chiếc giường của họ cho chàng. Bởi chàng biết bí mật về chiếc giường, chàng đã giải thích cho vợ nghe về bí mật, rằng một trong bốn chiếc chân giường làm bằng gốc cây ô liu nên không di chuyển được. Sau lời đó, chàng đã nhận được cái ôm chầm của người vợ thân yêu. Cảm xúc hạnh phúc của chàng được nâng tới đỉnh điểm khi người vợ đã chấp nhận chàng, họ ôm chầm lấy nhau trong sự hạnh phúc vô bờ bến, chàng cẩn thận nghe từng câu chuyện giãi bày của vợ. Sau bao năm xa cách, Uy-lít-xơ vẫn chứng minh được tấm lòng của mình với vợ, chàng là không chỉ là một con người thông minh mà còn là một người chồng yêu thương vợ sâu sắc.


    Chỉ trong một đoạn trích ngắn, tác giả đã rất thành công trong việc miêu tả tâm lí nhân vật; ông miêu tả tỉ mỉ, một cách chi tiết về cuộc sống của các nhân vật. Tình huống được ông dẫn dắt giàu kịch tính cùng với giọng văn chậm rãi đã mang đến cho người đọc hết bất ngờ này đến bất ngờ khác.


    Qua đoạn trích "Uy-lít-xơ trở về", diễn biến tâm trạng của Uy-lít-xơ vô cùng phức tạp, nhưng đến cuối cùng chàng vẫn được hạnh phúc đoàn tụ bên gia đình. Uy-lít-xơ là một nhân vật điển hình cho người đàn ông có khát vọng tìm hiểu chinh phục thế giới, là một người có ý chí, nghị lực, quyết tâm xây dựng và bảo vệ gia đình.

    Ảnh minh hoạ
    Ảnh minh hoạ
  4. Cuộc đấu trí giữa Uy-lít-xơ với tên khổng lồ Pô-li-phem là một trong những thử thách vô cùng nguy hiểm mà đứa con yêu quý La-éc-tơ phải trải qua uống suốt 10 năm trời lênh đênh trên biển cả để trở về với gia đình và cố hương.


    Từ những vị khách quý đến thăm đảo, Uy-lít-xơ đã trở thành những tử tù - những miếng mồi ngon cho Pô-li-phem. Pô-li-phem là một tên khổng lồ ghê gớm. Hắn chỉ có một mắt, có sức khoẻ siêu phàm. Cái tảng đá lấp kín cửa hang-cái cửa ấy, Uy-lít-xơ và các bạn đồng hành không thể nào di chuyển được. Hành động Pô-li-phem bứt ngang một chỏm núi ném theo đoàn thuyền của Uy-lít-xơ đã xa bờ, hỏi rằng có người trần nào có thể làm được?


    Uy-lít-xơ và các bạn đổng hành đã bị Pô-li-phem cầm tù. Chỉ mới hai ngày mà đã có 6 người bạn của Uy-lít-xơ bị tên khổng lồ Pô-li-phem ăn thịt một cách ngon lành. Ngày thứ ba lại có thêm 4 người nữa trở thành thực đơn của tên quỷ tàn ác. Cái bụng của hắn thật kinh khủng: mỗi bữa sáng, bữa chiều, hắn uống hết sữa của cả một đàn cừu béo mập đông đúc và còn ăn tráng miệng thêm hai người trần nữa.


    Vì thế hơn bất củ người trần nào khác, Uy-lít-xơ tự biết không thể nào đấu lực với tên khổng lồ, và chỉ có đấu trí, may ra mới thoát chết, mới giành được tự do. Ngồi trong hang, từng chứng kiến tên không lồ ăn thịt chiến hữu của mình, Uy-lít-xơ đã “nghiền ngẫm tai họa của mình, tìm cách báo thù và cầu mong A-tê-na ban cho vinh dự ấy”. Chàng dũng sĩ xứ I-tác, một con người mà “tài trí sánh ngang các thần” đã nghĩ ra mưu kế tuyệt diệu là phải làm sao chọc mù mắt tên khổng lồ chỉ có một mắt này!


    Uy-lít-xơ đã chọn cành câm lãm to bằng cột buồm của chiếc thuyền hai mươi mái chèo mà tên khổng lồ đã bẻ đem về vứt cạnh bên chuồng cừu làm chuỳ. Chàng chặt lấy một đoạn dài bằng sải tay, bóc vỏ, đẽo nhọn một đầu, nung vào lửa hồng cho cứng rồi đem giấu vào lớp phân cừu dày vương vãi khắp hang. Uy-lít-xơ đã cẩn trọng cất giấu vũ khí để tạo nên yếu tố bí mật, bất ngờ lúc hành động.


    Uy-lít-xơ đã tổ chức “rút thăm” chọn người mạo hiểm sẽ cùng mình “nâng cái cọc đó lên và xoáy vào mắt” tên khổng lồ khi hắn nằm ngủ. Mưu trí của Uy-lít-xơ vô cùng sâu xa tuyệt diệu, chàng đã dùng thứ rượu “làm toàn bằng cam lộ và mật hoa”, “màu đỏ lửa” chuốc cho tên khổng lồ ba bát đầy, “và cả ba lần thằng khờ ấy đều nốc cạn”. Xi-clốp muốn biết tên và “muốn biếu một tặng vật để tỏ tính hiếu khách” với Uy-lít-xơ, nhưng chờ khi hắn đã “say mèm rồi”, chàng mới dùng “những lời đường mật” nói cho “thằng khờ” biết rõ tên mình là “Chẳng có ai”. Cha tôi, mẹ tôi, tất cả bạn bè tôi đêu gọi tôi là “Chẳng có ai”.


    Thật là lạnh lùng và ghê sợ khi ta nghe tên khổng lồ một mắt nói với Uy-lít- xơ để “tỏ tính hiếu khách”: Này, “Chẳng có ai” ta sẽ ăn thịt các bạn ngươi trước, còn ngươi, ta để lại sau cùng. Tặng phẩm để tỏ tính hiếu khách của ta là thế đấy. Có thể nói, Uy-lít-xơ đã “giăng bẫy” một cách tài tình và đã làm cho “đồ tàn bạo ” trúng kế, mắc bẫy! Pô-li-phem “ngã vật xuống, ngửa bụng lên trời… cái cổ to lớn ngoẹo sang một bên, vùi mình trong giấc ngủ không thể nào cưỡng nổi”. Cũng là say rượu và nôn mửa, nhưng tên khổng lổ cũng rất khác lạ: “Hắn say quá, hôn mửa cả rượu lẫn thịt người”.


    Cái cọc nhọn gỗ cẩm lãm đã được vùi dưới lớp tro dày nóng bỏng lên bốc cháy và tỏa ra một luồng ánh sáng ghê rợn, Uy-lít-xơ lựa lời khuyến khích các bạn cùng mình hành động. Thần linh đã run rủi cho họ trở nên vô cùng gan dạ. Họ nắm lấy cái cọc cẩm lãm, gí đầu nhọn vào mắt tên khổng lổ tàn bạo; Uy-lít-xơ ”dùng hết sức bình sinh” xoáy vào mắt kẻ tử thù. Một cảnh tượng vô cùng khủng khiếp phơi bày ra: tròng mắt Pô-li-phem “cháy xèo xèo” “nổ lép bép” “máu vọt lên xung quanh cái cọc nóng bỏng”. Thằng khờ “hét lên một tiếng ghê người, tiếng hét dội vào núi đá, và vọng ra khắp cả xung quanh”.

    Khi Uy-lít-xơ và các bạn “sợ quá, chạy trốn”, kẻ khốn nạn “rút cái cọc đẫm máu ra khỏi mắt và, như điên như dại quẳng nó ra xa”.


    Bọn khổng lồ Xi-clốp vội chạy đến giữa đêm khuya tưởng có kẻ nào “dừng mưu hoặc bạo lực” giết bạn mình. Nhưng cả bọn đã ra về khi được nghe Pô-li-phem đáp:


    - Các bạn ơi, ai giết tôi ư ? “Chẳng có ai” dùng mưu giết tôi không dùng bạo lực. Cả bọn khổng lồ một mắt đều đã mắc mưu Uy-lít-xơ về cái tên “Chẳng có ai”, nên chúng đinh đinh Pô-li-phem “bị một bệnh gì đấy, do Dớt chí cao gây nên” và đó là một điều “không sao tránh khỏi”. Và chỉ còn một cách là cầu Pô-dê-i-đông oai hùng, thân phụ của chúng ta “mà thôi”.


    Chọc mù mắt tên khổng lồ rồi, nhưng làm sao thoát được hang khi hắn đã ngồi chắn cửa hang, dang rộng hai tay để tóm bắt những kẻ đã hãm hại hắn ? Uy- lít-xơ đã dùng dây miên liễu buộc ba con cừu đực với nhau làm một, con đi giữa mang theo một người, còn hai con bên cạnh bảo vệ người đó. Uy-lít-xơ ôm ngang bụng con cừu to nhất đàn, “bám chắc” vào bộ lông kì diệu của nó, và nằm lì như thế không chút sờn lòng”. Mặc dù thằng khổng lồ mù sờ nắn từng con cừu, kiểm soát rất chặt chẽ nhưng Uy-lít-xơ và các bạn mình đã thoát ra được cửa hang ngay trước mũi hắn.


    Có thể nói, chuẩn bị vũ khí bằng gỗ cẩm lãm, chuốc rượu say tên khổng lồ, chọc mù mắt hắn, bịa ra cái tên “chẳng có ai”, ôm lấy bụng cừu thoát cửa hang là những cái mưu tuyệt diệu của Uy-lít-xơ. Xi-clốp là đồ tàn bạo, đã ăn thịt khách tại nhà mình thì “phải chịu báo oán thật gớm ghê. Hắn có bao giờ quên được lời chế giễu, căm giận của kẻ đã làm nhục hắn:

    – Bớ Xi-clốp, nếu có người hỏi ai đã làm nhục mi, đâm thủng mắt mi, thì mi hãy trả lời: đó là Uy-lít-xơ, người triệt hạ thành trì, con của La-éc-tơ, nhà ở I-tác nhé!


    Bằng mưu trí, Uy-lít-xơ đã thoát hiểm và giành được tự do. Đâm mù mắt tên khổng lồ Pô-li-phem, một lần nữa khẳng định tài năng của một người trần mà mưu trí sánh ngang cả thần linh! Qua nhân vật Uy-lít-xơ, tác giả sử thi Ô-đi-xê đã ca ngợi sức mạnh tri tuệ và tinh thần dũng cảm vô song của người Hi Lạp. Uy-lít-xơ là một biểu tượng tuyệt đẹp về mẫu anh hùng văn hóa của dân tộc Hi Lạp làm cho ta vô cùng ngưỡng mộ.

    Ảnh minh hoạ
    Ảnh minh hoạ
  5. Sau 20 năm trời chinh chiến, Uylitxơ mới về đến quê hương. Hai cha con đã lập mưu giết chết 108 vị cầu hôn. Pênêlốp vẫn không tin chồng mình trở về. Đoạn này trích khúc 23 - “Ôđixê”, nói lên quá trình Pênêlốp nhận ra Uylitxơ chồng nàng. Hai người vô cùng cảm động.


    Pênêlốp là một người vợ thuỷ chung, kiên trinh đợi chờ chồng suốt 20 năm trời khi chồng đi chinh chiến. Nàng đã tìm đủ mọi cách để trì hoãn (chuyện dệt bức thảm, chuyện nêu điều kiện bắn xuyên 12 vòng tròn trên 12 lưỡi rìu) để khước từ bọn cầu hôn. Gặp lại Uylitxơ tại cung điện của mình sau sự kiện “người hành khất” đã bắn xuyên 12 lưỡi rìu và giết chết 108 vị cầu hôn. Nói với nhũ mẫu, nàng thận trọng cho rằng người vừa bắn xuyên 12 lỗ rìu là “một vị thần” còn “Uylitxơ đã chết rồi”. Nhũ mẫu nói về “cái sẹo” do lợn lòi húc ở chân Uylitxơ thì nàng vẫn thận trọng cho đó là “ý định huyền bí của thần linh bất tử”.


    Sau khi xuống lầu, Pênêlốp băn khoăn “không biết nên đứng xa xa hỏi chuyện….” hay nên lại gần, ôm lấy đầu, cầm lấy tay người mà hôn, khi thì nàng lại “đăm đăm nhìn chồng”, khi lại không nhận ra chồng dưới bộ quần áo rách mướt. Khi bị con trai trách mẹ là “tàn nhẫn”, “độc ác quá chừng”, “lòng dạ mẹ rắn hơn cả đá” thì Pênêlốp “kinh ngạc quá chừng” và tin rằng, nàng và Uylitxơ sẽ nhận ra nhau qua “những dấu hiệu riêng” chỉ có hai người biết còn người ngoài không ai biết hết. Thật là thận trọng, thông minh và giàu niềm tin.


    Uylitxơ trách “nàng thật là người kì lạ”, các thần đã ban cho nàng “một trái tim sắt đá”… Lúc bấy giờ Uylitxơ vừa tắm và thay quần áo xong “đẹp như một vị thần”. Nàng ra lệnh cho nhũ mẫu “Khiêng giường ra khỏi gian phòng vách tường kiên cố… “để thử chồng”… Khi nghe Uylitxơ nói lên chân giường là một gốc cây cảm lảm không thể nào di chuyển được thì Pênêlốp “bủn rủn cả chân tay”,… “chạy ngay lại, nước mắt chan hoà, ôm lấy cổ chồng, hôn lên trán chồng”. Hai mươi năm ấy biết bao nhiêu tình! Pênêlốp nhìn chàng không chán mắt và hai tay trắng muốt của nàng cứ ôm lấy cổ chồng không lỡ buông rời”. Tóm lại, Pênêlốp là một người vợ thuỷ chung rất thận trọng như nàng nói “vì đời chẳng thiếu gì người xảo quyệt, chỉ làm điều tai ác”. Pênêlốp rất thông minh, kín đáo và bình tĩnh làm chủ cảnh ngộ. Nàng là một phụ nữ, một người vợ rất giàu tình cảm khi nhận ra Uylitxơ đích thực là chồng mình.


    Uylitxơ được biết đến là người kì mưu “con người gỗ thành Tơroa” chàng là một người trần mà mưu trí “sánh ngang thần linh”. Mười năm trời lênh đênh biển cả, trải qua bao gian nguy, Uylitxơ là hiện thân của lòng dũng cảm, mưu trí và có nghị lực phi thường. Chàng là một con người giàu lòng yêu quê hương, gia đình, vợ con. Lập mưu giết bọn cầu hôn chứng tỏ “cha vẫn là người nổi tiếng khôn ngoan, không một kẻ phàm trần nào sánh kịp” như Têlêmác đã nói.


    Sự thật vốn không ưa trang trí, hãy kiên nhẫn đợi chờ để sự thật nói lên sự thật! Uylitxơ để cho “cái chân giường nói lên sự thật”. Và khi Pênêlốp nhận ra chàng đích thực là chồng nàng thì Uylitxơ “ôm lấy vợ xiết bao thân yêu, người bạn đời chung thuỷ của mình, mà khóc dầm dề”. Uylitxơ là hình ảnh lý tưởng về người anh hùng, về một người chồng, một người cha dũng cảm, mưu trí, độ lượng, thuỷ chung.


    Tạo ra nhiều tình huống hấp dẫn, cảm động. Thêm với đó là cử chỉ, ngôn ngữ, tâm lí nhân vật được miêu tả sâu sắc làm nổi bật những tính cách với bao cá tính đầy ấn tượng.

    Ảnh minh hoạ
    Ảnh minh hoạ
  6. Uy-lít-xơ trở về thuộc khúc ca XVIII của ô-đi-xê, một tác phẩm sử thi Hi Lạp nổi tiếng thế giới. Đoạn trích kể lại cuộc tái ngộ của vợ chồng Pê-nê-lốp và Uy-lít- xơ sau hai mươi năm cách biệt. Cuộc tái ngộ ấy đầy hạnh phúc nhưng trước khi được hưởng niềm vui, niềm hạnh phúc đoàn tụ họ đã trải qua nhiều thử thách gay go. Ta hãy thử cùng tìm hiểu đoạn trích của tác phẩm qua hai nhân vật chính của đoạn trích Pê-nê-lốp và Uylít-xơ.


    Khi Uy-lít-xơ với nhưng với tư cách là một người hành khất giả danh, đây là lúc vị trí của Uy-lít-xơ đã thay đổi dưới cách nhìn của Pê-nê-lốp. Từ vai trò là người bạn của Uy-lít-xơ, người chia sẻ buồn vui với Pê-nê-lốp, Uy-lít-xơ đã xuất hiện như một đại diện cho sức mạnh. Việc diệt trừ một lúc 108 tên cầu hôn quấy đảo đã nàng vị trí một kẻ bình thường lên vị trí một người khác thường. Sự nâng cấp này làm cho Uy-lít-xơ gần với Uy-lít- xơ hơn. Nghĩa là khả nãng trở thành Uy-lít-xơ thật của người hành khất mở ra một triển vọng lạc quan đối với người vợ chung thủy đợi chồng. Nhưng dù thế, khi người nhũ mẫu báo tin vui là Uy-lít-xơ đã trở về câu nói của Pê-nê-lốp không phải là thái độ “đồng thanh tương ứng”. Trước sự phấn khích của người nhũ mẫu trung thành, tận tụy, lời nói của nàng như gáo nước lạnh dội vào. Câu đối thoại của Pê-nê-lốp với người nhũ mẫu làm hiện lên một tâm trạng.


    Với Pê-nè-lốp, việc Uy-lít-xơ trở về là một mơ ước, nhưng mơ ước đó quá xa xôi, xa xôi như hai mươi năm cách biệt. Ngọn lửa ấy không phải không có lúc bùng lên. Chỉ cần nhắc đến nó là người nói đã xao xuyến bồi hồi: “Già cũng biết, nếu chàng trở về thì mọi người trong nhà, nhất là tôi và con trai chúng tôi sinh ra kia sẽ sung sướng xiết bao!”. Nhưng giờ đây, do đã kìm nén nhiều năm, mơ ước ấy bị gạ sang một bên chí còn âm ỉ cháy. Thậm chí dấu vết còn lại của nó chỉnhư một nhúm tro than bị thời gian sóng gió dập vùi. (Còn về phần Uy-lít-xơ thì ở nơi đất khách quê người, chàng cũng đã hết hi vọng trở lại đất A-cai, chính chàng cũng đã chết rồi). Mặc cảm ấy dẫn đến sự không dễ dàng thừa nhận là hết sức tự nhiên. Trả lời câu hỏi: Ai là người giết bọn cầu hôn, theo Pê-nê-lốp, chiến tích phi thường ấy thuộc về thần linh: “Đây là một vị thần đã giết bọn cầu hôn danh tiếng”.


    Đoạn văn này mới diễn tả một tình cảm thật của nàng. Đó là sự sung sướng hả hê của người trút được gánh nặng, của một nạn nhân khi mắt thấy tai nghe sự trừng phạt thích đáng những kẻ tội đồ. Bao nhiêu hào hứng của nàng thuộc về phía ấy: “…một vị thần bất bình vì sự láo xược bất kham và những hành động nhuốc nhơ của chúng. Vì chúng chẳng kiêng nể một ai trên cõi đời này, dù là dân đen hay người quyền quý, hễ gặp chúng là bất cứ ai cũng bị chúng khinh miệt.Vì sự bất công điên rồ của chúng, nên chúng phải đền tội đấy thôi”. Còn Uy-lít-xơ thật có phải làngười ấy hay không, trong cách nghĩ của Pê-nê-lốp như có sự lảng tránh. Ngay cả lúc người nhũ mẫu già đưa ra một chứng cớ (vết sẹo trên bắp chân của Uylít-xơ do lợn lòi húc ngày xưa) cũng bị nàng gạt đi. Bởi trong ý nghĩa của Pê-nê-lốp người ta không thể tin vào bất cứ điều gì bởi tất cả là do thẩn linh sắp đặt: “Già ơi! Dù già sáng suốt đến đâu, già cũng không sao hiểu thấu những ý định huyền bí của thần linh bất tử”.


    Song, tiếng nói ấy dù sao cũng là tiếng nói của lí trí. Khi đối diện với người đàn ông mà nhũ mẫu ơ-ri-clê cho là Uy-lít-xơ, trái tim nhạy cảm của Pê-nê-lốp không còn có thể lặng yên được nữa. Mong muốn gặp chồng và nay gần như đã gặp chồng dù mới chỉ là linh cảm, trái tim tưởng như đã trở thành băng giá đã tan ra. Lần đầu tiên, nàng run rẩy, thiếu tự tin không làm chủ được bản thân mình. Trạng thái bất ổn ấy không chỉ diễn ra trong cái bối rối rất con người là “nàng không biết nên đứng xa xa hỏi chuyện người chồng yêu quý của mình hay nên lại gần, ôm lấy đầu, cầm lấy tay người mà hôn?”, mà ngay từ lúc Pê-nê-lốp quyết định bước xuống cầu thang để giáp mặt với “người ấy”.”Bây giờ ta hãy xuống nhà với Tê-lê-mác để xem xác chết của bọn cầu hôn và người giết chúng”.


    Kết hợp với độc thoại nội tâm và đối thoại lấp lửng với người nhũ mẫu, trái tim cứng rắn của Pê-nê-lốp đã gần bước qua các ranh giới vô hình mà chính nàng đã phân chia rạch ròi từ trước. Nhưng đến lúc có thể bước qua, nàng lại ngập ngừng dừng lại. Lí trí giúp nàng tỉnh táo. Tỉnh táo để không rơi vào ngộ nhận ở phút cuối cùng. Pê-nê-lốp nói với con hay nói với lòng mình và cả Uy-lít-xơ nữa về sự nấn ná dường như khó hiểu lúc này: “Nếu quả thật đây chính là Uy-lít-xơ, bây giờ đã trở về, thì con có thể tin chắc rằng thế nào cha con và mẹ cũng sẽ nhận được ra nhau một cách dễ dàng”. Nàng cầu cứu vào sự thật, vào lí trí một lần cuối cùng trước khi hành động, trước khi quyết định, một quyết định quan trọng biết dường nào. Trước khi có quyết định ấy, mâu thuẫn giữa tình cảm và lí trí làm cho Pê-nê-lốp ở vào một tình trạng tiến thoái lưỡng nan vừa khó có thể rời xa vừa không thể đến gần con người ấy. Cảm giác thân thiết một cách xa lạ này được phản chiếu vào đôi mắt, vào cái cửa sổ của tâm tư khi nàng ngồi yên mà trong lòng đang nổi sóng “khi thì đăm đăm âu yếm nhìn chồng, khi lại không nhận ra chồng dưới bộ áo quần rách mướp”.


    Khi Uy-lít-xơ ở phòng tắm bước ra, từ một người hành khất, Uy-lít-xơ “đẹp như một vị thần”. Điều đó với Uy-lít-xơ không phải là không chúý. Nhưng dù chàng có cốtình thay đổi, cái nhìn của Pê-nê-lốp vẫn không thay đổi. Bởi ý thức tự thay đổi của Uy-lít-xơ không nằm trong vùng cảm nghĩ của nàng. Chỉ tới khi lòng kiên nhẫn của Uy-lít-xơ cạn dần đến mức phải thốt ra những lòi tuyệt vọng “Thôi, già ơi! Già hãy kểcho tôi một chiếc giường để tôi ngủ một mình, như bấy lâu nay, vì trái tim trong ngực nàng kia là sắt”, trong tâm trí khôn ngoan của Pênê-lốp mới bật ra một phép thử. Phép thử ấy không phải bất ngờ vì trước đó, nàng đã đinh ninh sẽ đánh thức trí nhớ của Uy-lít-xơ nếu Uy-lít-xơ thật về những bí mật đời tư của họ, “những dấu hiệu riêng, chỉ hai người biết với nhau”.


    Chỉ có điều Pê-nê-lốp còn chưa tìm ra thì may sao chính lời than thở vô tình của Uy-lít-xơ lại sáng lên cho nàng một gợi ý. Và hiệu quả tức thời của nó nhanh đến mức Uy-lít-xơ vừa nhắc đến chiếc giường bí mật thì với nàng, con đê cuối cùng, con đê tự bảo vệ mà Pê-nê-lốpđã dựng lên trong suốt hai chục năm qua đã không còn cần thiết nữa. Đây là lời kể của Hô-me-rơ: “Người nói vậy và Pê-nê-lốp bủn rủn cả chân tay… Nàng bèn chạy ngay lại, nước mắt chan hòa, ôm lấy cổ chồng, hôn lên trán chồng…” ở vào giờ phút thiêng liêng này, vai trò của hai người đã được đổi chỗ cho nhau. Người cầu xin không còn là Uy-lít-xơ nữa. Người ấy là vợ chàng.


    Đó là sự cầu xin vì hạnh phúc, hạnh phúc quá lớn lao một khi định mệnh “Thần linh đã dành cho hai ta một số phận biết bao cay đắng” đã buông tha, cầu xin sự tha thứ nữa, tha thứ cho một người vợ đã cố tình sắt đá với chàng, vì “thiếp luôn luôn lo sợ có người đến dây, dùng lời đường mật đánh lừa, vì đời chẳng thiếu gì người xảo quyệt, chỉ làm điều tai ác…” Hạnh phúc mà Pê-nê-lốp tìm lại cho mình là cả hai mươi năm li biệt, là lòng thủy chung sắt son, là cả sự mẫn tiệp của trí tuệ thiên bẩm. Dường như chỉ có nàng mới thấm thìa cái ngọt ngào sau bao nỗi đắng cay, chỉ có nàng mới đo được cái tầm vóc vô hình của nó và chỉ có thiên nhiên mới nói được niềm vui sướng vô biên của “rất ít người thoát khỏi biển khơi trắng xóa mà vào được đến bờ”. Biểu hiện tột cùng của hạnh phúc ở nàng như trạng thái của một giấc chiêm bao: “nàng nhìn chồng không chán mát và hai cánh tay trắng muốt của nàng cứ ôm lấy cổ chồng không nỡ buông rời”.


    So với Pê-nê-lốp, Uy-lít-xơ không phải là nhân vật chính, không giữ vai trò quyết định cho cuộc đoàn viên. Mặc dù như Tê-lê-mác thừa nhận một cách tự hào: “xưa nay cha vẫn là người nổi tiếng khôn ngoan, không một kẻ phàm trần nào sánh kịp”, nhưng trí tuệ ấy của Uy-lít-xơ thể hiện chủ yếu ở một không gian khác: không gian trận mạc và cuộc vượt biển mười năm trở lại quê hương. Còn trước những vấn đế phức tạp như bí mật của lòng người, Uy-lít-xơ còn khá ngây thơ. Chẳng thế mà việc diệt trừ 108 kẻ cầu hôn với chàng không khó, nhưng làm thế nào để mở được cánh cửa im ỉm đóng của tâm hổn Pê-nê-lốp, Uy-lít-xơ đã phải bó tay. Chí còn biết kiên nhẫn, đợi chờ, trách móc. Vai trò của Uy-lít-xơ rơi vào tình trạng bị động và phụ thuộc hoàn toàn. Trí tuệ của Uy-lít-xơ trong phạm vi giao tiếp, ứng xử với phụ nữ (dù người đó là vợ chàng) chẳng hơn gì Tê-lê-mác con chàng là mấy. Có đến hai câu trách móc giống nhau:


    Tê-lê-mác: “Mẹ ơi, mẹ thật tàn nhẫn và lòng mẹ độc ác quá chừng! Sao mẹ lại ngồi xa cha con như thế, sao mẹ không đến bên cha, vồn vã hỏi han cha? Không, không một người đàn bà nào sắt đá đến mức chồng đi biền biệt hai mươi năm nay, trải qua bao nỗi gian lao, bây giờ mới trở về xứ sở, mà lại có thể ngồi cách xa chồng như vậy. Nhưng mẹ thì bao giờ lòng dạ cũng rắn hơn cả đá”. – Uy-lít-xơ: “Khốn khổ! Hẳn là các thần trên núi Ô-lem-pơ đã ban cho nàng một trái tim sắt đá hơn ai hết trong đám đàn bà yếu đuối, vì một người khác chắc không bao giờ có gan ngồi cách xa chồng như thế, khi chồng đi biền biệt hai mươi năm trời, trải qua bao nỗi gian truân, nay mới trở về xứ sở. Thôi, già ơi! Già hãy kểcho tôi một chiếc giường để tôi ngủ một mình, như bấy lâu nay, vì trái tim trong ngực nàng kia là sắt”. Ấy là chưa nói đến có tới hai lần ý nghĩ của Uy-lít-xơ hoặc không nằm trong vùng tâm tư, cảm nghĩ của đối tượng (vợ chàng) hoặc nằm ngoài mạch truyện.

    Chứng cớ thứ nhất là khi phát hiện một nửa cái nhìn của Pênê-lốp (vừa âu yếm vừa xa lạ) của mình “dưới bộ áo quần rách mướp”, chàng nghĩ ra ngay một giải pháp. Điều mà vợ chàng nói là “sẽ nhận ra nhau”, Uy-lít-xơ cũng đinh ninh là thế với cái ý nghĩ giản đơn: “Hiện giờ cha còn bẩn thỉu, áo quần rách rưới nên mẹ con khinh cha, chưa nói: “Đích thị là chàng rồi”. Để rồi sau đó, từ nhà tắm bước ra, yên trí cho rằng tuy ngồi lại vào chỗ cũ, nhưng Pê-nê-lốp sẽ nhìn nhận chàng bằng một con mắt khác, bởi lúc đó: không còn là người hành khất rách rưới mà “đẹp như một vị thần”. Kết quả là Pê-nê-lốp không có một thái độ đổi thay (như chờ đợi của chàng). Chứng cớ thứ hai khi đang là đối tượng thử thách của Pê-nê-lốp, vấn đề vợ chàng nhận ra hay không nhận ra chàng mới là điều hệ trọng thì Uy-lít-xơ lại quay ra nói chuyện với con về một vấn đề chẳng liên quan gì đến mạch Tuyện: “Nhưng về phần cha con ta, ta hãy bàn xem nên xử trí thế nào cho ổn thỏa nhất”. Nhất là cách bàn chuyện lại dài dòng: “Nếu có ai giết chết một người trong xứ sở […] cha khuyên con nên suy nghĩ”.


    Nhưng cũng may là do quá thật thà (không biết dụng ý của Pê-nê-lốp) mà khi Pê-nê-lốp vừa nói đến việc di chuyển chiếc giường bí mật, Uy-lít-xơ đã quá đỗi ngạc nhiên. Đó chính là cái “giật mình”mà vợ chàng nóng lòng chờ đợi. Và kế sau đó, đoán chắc như đinh đóng cột (“nếu không có thần linh giúp đỡ thì dù là người tài giỏi nhất cũng khó lòng làm được việc này”) nhất là cách tả như đếm của chàng (làm bằng cây gì, thiết kế tí mỉ ra sao,…) thì Pê-nê-lốp lại như người bắt được vàng. Gạt bỏ đi tất cả những yếu tố “ngoại đề” (thậm chí còn là lạc đề) của Uy-lít- xơ ngây thơ, Pê-nê-lốp đã thực sự nhận ra người chồng vô cùng yêu quý. iệc miêu tả Uy-lít-xơ như trên vừa nói là một đồ ý nghệ thuật của Hô-me-rơ. Nó chẳng những không hạ thấp trí tuệ của chàng (trí tuệ ấy thể hiện ở một vùng không gian khác) mà còn tạo ra một thứ mặt bằng để từ đó sự thông minh sắc sảo của Pê-nê-lốp nổi bật hẳn lên. Trong một lát cắt ngang của tác phẩm, sứ mệnh nghệ thuật của Uy-lít-xơ đã hoàn thành một cách ngoài dự kiến.


    Kết hợp với các yếu tố nghệ thuật khác như cách dàn dựng cốt truyện, ngôn ngữ sử thi (ngôn ngữ trực tiếp và lời kể của người dẫn truyện), việc xây dựng nhân vật theo lối đa dạng hóa có tính khắc họa khá cao dù tác phẩm ra đời từ cái thời rất đỗi xa xôi của lịch sử.

    Ảnh minh hoạ
    Ảnh minh hoạ
  7. Hô-me-rơ được biết đến là nhà thơ mù sống vào thời kì trước công nguyên. Ông được sinh ra và lớn lên trong một hoàn cảnh nghèo khó. Ông đã tập hợp tất cả những tiểu thuyết và sử thi đồ sộ để hoàn thành bộ sử thi Ô-đi-xê. Tác phẩm nới về sự nghiệp chinh phục thế giới bao la và hùng dũng con ngời ngoài lòng dũng cảm thì đòi hỏi phải có những phẩm chất như sự thông minh tỉnh táo mưu trí và khôn ngoan. Tác phẩm Uy-lit-xơ trở về được trích trong tác phẩm Ô-đi-xê. Tác phẩm như đã miêu tả thật chân thực hai cuộc tác động đối với Pê-lê-nốp và Uy lít xơ để được đoàn tụ cùng nhau. Qua đoạn trích ta thấy được hình tượng nhân vật Pê-nê-nốp hiện lên thật đẹp là biểu tượng của những người phụ nữ trong xã hội thời bấy giờ.


    Đầu tiên có thể nói vẻ đẹp của nàng được hiện lên là một người có thái độ rất trân trọng qua thái độ của nàng đối với người ăn mặc lôi thôi lếch thếch và còn tự nhận là chồng của nàng. Nàng bỏ ngoài tai tất cả mọi lời nói của những tên hậu cần nói đó không phải là chồng của nàng. Nàng mời người đó vào điện và nói người đó hãy kể cho nàng nghe những chuyện mà người đó đã trải qua trong suốt hai mươi năm đi xa. Thật bất ngờ nghe nhũ mẫu báo tin là chồng nàng đã trở về thì nàng rất vui mừng nhảy cẫng kên vì vui sướng đến tột độ. Và thế là người chồng sau bao nhiêu năm xa cánh bặt vô âm tín nay bỗng nhiên đã trở về bên nàng. Điều này là biểu thị của lòng chung thủy là sự chờ đợi bò bõ của nàng suốt bao nhiêu năm xa cách. Biết bao ngày đêm nàng dệt tấm thảm rồi đêm đêm lại tháo ra nhằm trì hoãn sự hối thúc của bọn đến cầu hôn biết bao nhiêu năm sự chờ đợi chung thủy của nàng dành cho chồng.


    Giờ đây sự chờ đợi của nàng đã được đền bù, đền đáp thật xứng đáng. Nhưng từ sự phấn khích và quá đỗi vui sướng nàng lại có một thái độ hoàn toàn khác đó là sự thận trọng. Tâm trạng này của nàng chúng ta có thể hoàn toàn hiểu được. Nàng rất cũng đã rất phân vân vì nếu những vị hành khất là chồng nàng thực thì tại sao trong lần gặp trước lại không nói ra. Và nếu như nhân vật Pê-nê-lốp vội vã mà nhận lầm thì danh dự của nàng sẽ bị tổn thương rất lớn (điều tối kỵ của người Hi Lạp).


    Tâm trạng trước khi ra gặp chồng của nàng đó là tâm trạng rất phân vân. Điều đó được thể hiện trong tâm trạng trong cách ứng sử của nàng. Nàng không biết nên đứng xa mà nhìn hay là chạy đến mà ôm chạy đến mà hôn lấy tay chàng. Thế rồi nàng ngồi cách xa chồng, Phải chăng tâm trạng của nàng lúc này đang rất rối bời. Nàng thật tinh tế khi đã chọn cánh ngồi xa chồng nhưng dường như khi nào ta cũng thấy sự chăm chú cái vẻ mặt thương cảm cái ánh mắt của nàng chưa lúc nào rời khỏi con người ấy. Nàng đã ngồi đối diện với người chồng chưa kịp nói điều gì mà đứa con trai đã vội trách mẹ “mẹ ơi mẹ thật tàn nhẫn và lòng mẹ thật tàn nhẫn qua chừng.


    Có thể nói từ trước đến nay không có lấy một người đàn bà nào sắt đá đến mức mà chồng đi biền biệt suốt hai mươi năm mới trở về mà lại có thể ngồi cách xa chồng đến mức độ như vậy. Và ngay cả đứa con trai chỉ nhìn vào cái bên ngoài mà không hiểu thấu được lòng mẹ lúc này cũng đang như lửa đốt vậy. Đứng trước câu nói của đứa con trai yêu quý lạicàng khiến lòng nàng trở nên rối trí. Nhưng chỉ trong giây lát ngắn ngủi thôi là nàng đã tìm được lại lí trí lấy được lòng dũng cảm và nàng đã tìm ra cách để xác minh sự thật để chứng minh được đó là chồng của nàng. Sự thận trọng của nàng khiến cho chúng ta cảm thấy nàng là một người rất thông minh sự thận trọng ấy rất phù hợp với hoàn cảnh và điều đó càng chứng minh một sự thủy chung đến mặn nồng trong con người nàng. Nàng dường như đã đợi người ấy suốt bao nhiêu năm vì thế không thể dựa vào những lời nói bâng quơ hay là một dáng hình bề ngoài là nàng tin tưởng để rồi có khi lại có những lựa chọn sai lầm được.


    Dường như vẻ đẹp của người phụ nữ ấy còn được hiện lên bằng những tào trí sáng tạo hơn người thể hiện nàng là một người có học thức có tài trí sức sảo một con người có học thức. Đó còn chính là một tư thế ung dung khi tiếp một vị khách xa lạ mà đặc biệt khi ông ta đã giúp nàng đánh đuổi được một trăm lẻ tám tên cầu hôn. Nàng đã làm chủ được tình thế làm chủ được bản thân, nàng không hề thất lễ với khách cũng không làm mất lòng với kẻ ở người ăn.


    Nhưng nếu chỉ dừng lại trong cái cách sử trí với người lạ thì ta chưa thể thấy được một sự thông minh sắc sảo của con người này được. Qua lời đối thoại với con trai nàng đã cố tình đưa ra phép thử về dấu hiệu nhận biết của chiếc giường mà chỉ nàng với chồng nàng mới biết được. Nàng đã sai nhũ mẫu khiêng chiếc giường ra và dường như Uy lít xơ cũng cảm thấy chột dạ khi mà chiếc giường không thể xê dịch được. nhưng với trí thông minh của mình uy lít xơ đã tìm ra bí mật của chiếc giường bằng cách miêu ta nó thật chi tiết. Đó chính là một chiếc giường được làm bằng gỗ của cây ô liu và bằng việc miêu tả nó chàng đã kể lại những câu chuyện tình yêu giữa chàng với vợ mình. Và cuối cùng chàng Uy-lít xơ đã giải mã được cái dấu hiệu bí mật mà vợ mình đã đặt ra. Khi nhận ra chồng nàng dã thể hiện tình cảm của mình bằng những biểu hiện yêu thương khát vọng mong chờ đối với người chồng mà bấy lâu nay nàng đã không thể biểu thị tình cảm yêu thương ấy đối với một ai mà chỉ một lòng đợi người chồng này về. Nàng “bủn rủn cả chân tay chạy lại nước mắt chan hòa ôm lấy cổ chồng hôn lên trán chồng. Pê-nê-lốp với sự thông minh, nhạy bén và tài trí của mình đã xác minh và tìm ra được chồng mình còn Uy lít xơ thì bằng trí tuệ nhạy bén đã đáp ứng được tất cả mọi thử thách mà vợ chàng đã đưa ra. Và có thể nói rằng đó chính là sự gặp gỡ của hai tâm hồn hai trí tuệ, thật cảm động và thiêng liêng biết bao.


    Từ đó ta cũng thấy được những phẩm chất cao dẹp của nàng đặc biệt là trí tuệ sắc sảo, sự bình tĩnh tự tin và luôn thận trọng trong mọi tình huống. Khi nàng nhấn mạnh “cha và mẹ.. không ai biết đến điều này hết” chính là lúc nàng cố ý tạo ra một hoàn cảnh thử thách đối với Uy-lít-xơ. Nó là một gợi ý về dấu hiệu nhận ra nhau của vợ chồng nàng. Câu nói ấy như vừa đã thể hiện sự thận trọng, vừa lại thể hiện được sự thông minh sắc sảo của Pê-nê-lốp. Thực ra Pê-nê-lốp không phải là người “bao giờ lòng dạ cũng rắn hơn cả đá”, có “một trái tim sắt đá hơn ai hết”. Hai mươi năm phải làm chủ gia đình, lại phải đối diện với bao thử thách, nàng đã phải tạo cho mình cái vỏ bọc cứng rắn. Cũng chỉ có như vậy nàng mới chờ được đến ngày người chồng trở về để được ùa vào lòng chàng mà bật lên bao nhiêu cảm xúc dồn nén mấy chục năm xa cách.

    Pê-nê-lốp để giải tỏa mối nghi ngờ nàng đã phải dùng đến cách thử bí mật của chiếc giường trong màn nhận mặt. Đầu tiên đó là việc để Pê-nê-lốp biết đó không phải là Uy-lít-xơ giả. Sau nữa, nó còn là minh chứng cho lòng chung thủy của nàng.


    Nếu như chiếc giường đã bị chuyển đi hoặc đã không còn là bí mật của riêng hai vợ chồng nữa thì cũng có nghĩa là phẩm giá của Pê-nê-lốp cũng không còn nguyên vẹn. Chính phép thử ấy không những chỉ nói lên phẩm chất kiên trinh của Pê-nê-lốp mà còn khắc sâu sự bền vững của tình cảm gia đình, tình cảm vợ chồng cha con. Qua hành động của nhân vật Pê-nê-lốp (một sự cẩn trọng gần như thái quá) chúng ta có thể thấy được tính chất phức tạp của thời đại - nơi mà những hiểm nguy luôn rình rập, đe dọa con người.


    Tác phẩm dường như đã cho chúng ta thấy được một phần nào đó người phụ nữ cổ trong xã hội thời bấy giờ. Họ một lòng một dạ chung thủy, họ thông minh họ sắc sảo đến kì lạ họ yêu thương nồng cháy nhưng thông minh trí tuệ và đầy bản lĩnh.

    Ảnh minh hoạ
    Ảnh minh hoạ


loading...