Top 5 Bài văn nghị luận ấn tượng của HSG Quốc gia

Có rất nhiều đề văn hay trong đề HSG Quốc gia song song với đó là những bài viết ấn tượng. Những bài viết của học sinh giỏi quốc gia giống như tinh hoa của ... xem thêm...

  1. Picasso từng là một họa sĩ vô danh. Ông đã dùng 15 đồng bạc cuối cùng trong túi để thuê sinh viên dạo quanh hàng tranh và hỏi: "Ở đây có bán tranh của Picasso không?". Sau đó chưa đầy một tháng, tên tuổi ông lan khắp Paris và ông trở nên nổi tiếng. Câu chuyện này của Picasso ngày nay được người ta lan truyền như một bài học điển hình của việc quảng bá và truyền thông thương hiệu cá nhân, nhưng liệu có mâu thuẫn với quan điểm "Hữu xạ tự nhiên hương" của người xưa hay chăng?


    Như chất xạ mang trong mình hương thơm đặc biệt thì ắt sẽ tự lan tỏa và thu hút xung quanh; mỗi người nếu mang trong mình giá trị riêng, tư chất riêng thì ắt sẽ được công nhận, một cách tự nhiên không gượng ép.


    Nikola Tesla chưa từng phải tự nhận mình là "cha đẻ của công nghệ thời hiện đại", nhưng cả thế giới đều mệnh danh nhà bác học này như thế vì những phát minh đi trước thời đại của ông. William Shakespeare có thể sẽ chỉ mãi là một chân nhắc tuồng hoặc một diễn viên vô danh trong nhà hát, nếu không tài tình sáng tác nên những tác phẩm vừa kịch tính, vừa sâu sắc phản ánh được khủng hoảng của thời đại, để trở thành một nhà soạn kịch danh tiếng. Dù trong bất kì lĩnh vực nào, khi mỗi chúng ta hoàn thành được trách nhiệm và bổn phận của bản thân, đó đã là điều quý giá vô cùng. Khi ấy, ta đã vô hình trung kiến tạo nên một giá trị nhất định. Mà đã là giá trị, tự nhiên sẽ tỏa sáng mà chẳng cần bất kì ánh đèn sân khấu nào.


    Tập trung vào việc phát triển bản thân, tự khắc cái "tôi" của ngày hôm nay sẽ khác với cái "tôi" của ngày hôm qua, có thể trưởng thành hơn, nhiều trải nghiệm hơn. Cũng giống như mỗi ngày bước lên một nấc thang mới, bạn sẽ bước đến một đỉnh cao mà không cần phải giới thiệu, người ta cũng biết bạn là ai. Còn khi sự tập trung của chúng ta bị phân tán vào việc "làm sao để được nhiều người biết đến hơn?", "làm sao để trở nên nổi tiếng?", để rồi bất chấp tất cả mà đánh đổi sự nổi lên nhất thời của mình bằng những tai tiếng còn lại mãi về sau. Thì khi ấy, giá trị ở đâu ta đã kiến tạo? Trước khi đặt ra câu hỏi trách móc rằng sao cuộc đời bạc bẽo quá, không cho mình nổi một sự công nhận, thì hãy tự hỏi lại chính mình đã làm được những gì để đòi hỏi một sự ghi công?


    Song, trong một thời đại bùng nổ và cạnh tranh thông tin, thời đại mà bất kỳ cái gì cũng cần được quảng cáo rầm rộ và nhờ truyền thông để nâng tầm giá trị, thì liệu "hữu xạ" có còn "tự nhiên hương", liệu cứ hoàn thiện bản thân là sẽ tự thu hút những cơ hội? Nhiều người chắc hẳn sẽ trả lời rằng: Không! Đã qua rồi cái thời mà "tiếng lành đồn xa", tỏa hương ngồi chờ ong bướm đến. Thời đại hiện nay với những sự thay đổi chóng mặt đòi hỏi chúng ta phải chủ động và hành động quyết liệt chứ chẳng thể "há miệng chờ sung". Người ta chẳng còn ngạc nhiên với những thương hiệu toàn cầu vẫn ngày ngày quảng cáo và phủ sóng trên khắp các kênh truyền thông, từ truyền hình đến mạng xã hội…


    Quả thực, vật đổi sao dời, thời thế thay đổi đã là quy luật tất yếu. Nhưng thời thế không phải là cái cớ cho việc gồng mình xây dựng hình ảnh cá nhân một cách giả tạo, rồi tự an ủi rằng ngày nay phải làm thế cho hợp thời.


    Quả thực, sống là không chờ đợi, là chủ động nắm bắt cơ hội cho chính mình. Nhưng sống chủ động cũng chẳng phải cái cớ cho sự vội vã và nóng lòng muốn thành công sớm, để rồi bất chấp đốt cháy giai đoạn, ngụy tạo và giả dối.


    Đừng vội vin vào câu chuyện của Picasso để ngụy biện rằng, không tự quảng bá mình thì sẽ chẳng ai biết đến. Vì trước khi nghĩ đến chuyện tự truyền thông, Picasso cũng phải vẽ những bức họa, dấn thân vào nghệ thuật sáng tạo, cũng phải có một giá trị nào đó để đem đến cho người. Và mọi sự ghi nhận, nể phục đều trên nền tảng của cái chất rất riêng mà chúng ta có, chứ không phải qua việc "gióng trống khua chiêng" cho một bản sao nhạt nhòa hoặc phô trương cho sự dị biệt lố lăng.


    Xây dựng hình ảnh bản thân trong cuộc sống hôm nay là cần thiết. Nhưng linh hồn của việc tạo dựng hình ảnh ấy là cái chất bên trong, cái giá trị mà chúng ta có, chứ chẳng phải một cái vỏ rỗng tuếch. "Hữu xạ tự nhiên hương" vẫn đúng, vì bức thông điệp quan trọng nhất trong quan niệm này của người xưa là hướng mỗi con người đến sự phát triển và hoàn thiện bản thân mình, tập trung nâng tầm giá trị mình bằng chính cách mình sống và cách mình ứng xử. Và "tự nhiên hương" giống như quả ngọt cho quá trình đi tìm phiên bản hoàn hảo nhất của chính mình, cũng là một sự lựa chọn. Chúng ta có thể chọn "tự nhiên hương", cũng có thể chọn chủ động truyền thông thương hiệu cá nhân, chỉ cần có điều cốt lõi là "hữu xạ" thì mọi con đường đều là đáng quý.


    Nhìn lại lời nhận xét của Einstein dành cho vua hề Charlot: "Ngài chỉ diễn câm thế mà mọi người trên thế giới đều hiểu. Ngài chắc chắn sẽ trở thành một nhân vật vĩ đại". Phải chăng, cũng vì thế chúng ta càng có thể có niềm tin rằng: Chỉ cần mình thực sự là ánh sáng, thì mình ắt sẽ tỏa sáng…"

    Hình minh hoạ
    Hình minh hoạ

  2. "Văn thì cứ suy tôn Hàn Dũ, thơ lại chỉ thấy thần tượng Đỗ Phủ, chẳng khác gì leo núi phải lên Thái Sơn, bơi thuyền phải ra Đông Hải vậy. Nếu cứ ôm lấy Đông Hải, Thái Sơn, mà ngoài ra không biết cái lạ của Thiên Thai, Vũ Di, cái đẹp của Tiêu Tương, Kinh Hồ thì người đó chỉ là anh đốn củi trên Thái Sơn, bác lái đò ngoài Đông Hải".


    Trong "Tùy Viên Thi Thoại", Viên Mai quan niệm dấu ấn của mỗi người nghệ sĩ nằm ở sự mới mẻ, độc đáo, nhìn xa trông rộng để quan sát hết thảy giang san. Phải chăng, mỗi nhà văn cũng cần sáng tạo "thế giới của riêng mình", "thế giới của riêng mình nhưng lại không chỉ cho riêng mình".


    Từ ba màu sắc chính là xanh, đỏ, vàng mà tạo ra những bức tranh muôn hình vạn trạng; từ bảy nốt nhạc mà tạo nên biết bao âm giai lúc trầm, lúc bổng, lúc dạt dào, lúc sâu lắng; và cũng chừng ấy chữ cái mà biết bao tác phẩm văn học muôn màu muôn sắc ra đời. Với nguồn nguyên liệu thô sơ, ít ỏi ấy, bàn tay tài hoa của người nghệ sĩ đã lựa lọc để sáng tác nên "thế giới của riêng mình" - thế giới của tình cảm, cảm xúc, thế giới của những mảnh đời với muôn kiểu tình huống, thế giới được tạo nên từ quan niệm và cách nhìn của chính nhà văn.


    Sáng tạo "thế giới của riêng mình" là tiếng nói đầu tiên, tiếng nói thứ nhất của tâm hồn. Và liệu có phải chỉ có nhà văn, nhà thơ mới tạo tác được thế giới ấy? Từ cửa sổ phòng bệnh, trong nỗi cô đơn tuyệt vọng của bệnh tật và cả khát khao vươn tới cái đẹp, Van Gogh đã khắc họa thế giới riêng chứa đầy cảm xúc hỗn tạp qua bức tranh "Đêm đầy sao". Trong đêm trăng mang đau đáu của mối tình đơn phương, Beethoven đã tạo nên thế giới riêng qua "Sonat ánh trăng", lúc mãnh liệt như những đợt sóng trào, lúc mênh mang như dòng sông Danube, lúc trầm mặc, dịu êm như vầng trăng huyền ảo. Không chỉ riêng văn học, mà ở các lĩnh vực như hội họa, điêu khắc, âm nhạc, người nghệ sĩ đều có thể tạo nên thế giới riêng. Tôi băn khoăn rằng, liệu thế giới riêng trong văn học có gì khác biệt? Phải chăng, điều đó nằm ở tính đại chúng, không phải ai cũng tự sáng tạo được một bức tranh, hay viết một bản nhạc để gửi gắm tâm tư, nhưng ai cũng có thể viết văn, làm thơ, giãi bày tình cảm qua ngôn từ. Mỗi người đều tạo ra một thế giới riêng qua ngôn từ!


    Viết văn, cũng chừng ấy kí tự, chừng ấy con chữ, mỗi nhà văn sáng tạo ra một thế giới của riêng mình. Nguyễn Tuân từng quan niệm "Nghề văn là nghề của chữ", đó là nghề "dùng chữ nghĩa sinh sự để sự sinh". Từng ấy kí tự, mỗi nghệ sĩ với quan điểm sáng tác khác nhau, giọng văn khác nhau, hoàn cảnh khác nhau, tính cách khác nhau sẽ tạo nên tác phẩm khác nhau. Người ta nhớ về Nguyễn Tuân là bậc thầy sáng tạo ngôn từ, thế giới của ông là thế giới của những người tài hoa nghệ sĩ, sự vật được viết dưới bình diện văn hóa thẩm mỹ. Theo nhà nghiên cứu Nguyễn Đăng Mạnh, nhu cầu tránh trùng lặp trong văn học đã buộc Nguyễn Tuân tung ra tất cả những chữ đồng nghĩa trong vốn liếng của mình. Nói về phi công Mỹ, ông những từ "cướp trời, giặc trời, vân phỉ…", nói về lính Mỹ bị giải đi, ông dùng những từ "Một dây tù Mỹ, một dây tội tù, một chuỗi quỷ sống, một xâu vô lại".


    Thế giới riêng mình không có nghĩa là nhà văn tự tách biệt bản thân khỏi dòng chảy chung của nhân loại. Xuyên suốt các thời kì phát triển, mỗi người nghệ sĩ đều không ngừng nỗ lực cống hiến những áng văn thơ ghi lại dấu ấn cuộc đời, mỗi tác phẩm đều là tinh hoa tiền nhân để lại cho hậu thế tiếp nối, kết thừa, phát triển. Người ta thường hiểu lầm rằng nghệ sĩ chủ trương xóa bỏ gò bó để tự do tạo ra thế giới của riêng mình, nhưng không có gò bó cũng không có nghệ thuật. Sở dĩ, bậc đại sư vẽ ngựa Hàn Can thành công là bởi ông lấy ngựa thực làm thầy. Thạch Đào đời Thanh cũng từng nói "Nhặt góp hết thảy những đỉnh núi lạ rồi mới viết bản thảo". Không có người nghệ sĩ nhân chính nào tách biệt khỏi thế giới chung và cũng không có tác phẩm thành công nào mà không dựa trên tinh hoa của người xưa để lại.


    Thế giới của riêng mình cần bắt nguồn từ thực tế cuộc sống. Nghệ thuật là lĩnh vực của sáng tạo, người nghệ sĩ được phép dựng xây một thế giới riêng, song không có nghĩa thế giới ấy xa rời thực tế. Nhà văn thụ hưởng bầu sinh quyển thời đại, chứng kiến đổi thay thời thế nên lẽ tất yếu thế giới mà nhà văn gây dựng mang hình ảnh của cuộc sống. Hơn hết, vượt lên trên nhu cầu thỏa mãn sáng tạo cá nhân, mỗi nhà văn, nhà thơ đều có sứ mệnh cao cả ghi lấy những cuộc "bể dâu", những biến cố lịch sử không thể nào quên. Sáng tác trong thời kì đòi hỏi tính quy phạm, cái ta chung vô cùng chặt chẽ, Đỗ Phủ vẫn thành công xây dựng thế giới nghệ thuật riêng. Suốt cả một đời, những dòng thơ dung dị, chân thật của Thánh Thi xoay quanh lòng yêu dân, ái quốc và tinh thần đấu tranh chống bọn cường quyền. Thế giới trong thơ ông bắt nguồn từ chính cuộc đời thực, khi nhà thơ chịu nhiều cảnh cực khổ loạn lạc, tận mắt thấy bao hiện tượng thối nát của xã hội, kinh qua nỗi khổ của lê dân bá tánh. Cảm hứng từ cuộc đời mới làm nên chất riêng trong thế giới của văn sĩ.


    Từ thế giới riêng của người nghệ sĩ, bạn đọc thấy được hình ảnh của chính mình, bởi "Bài thơ hay làm cho ta không còn thấy câu thơ, chỉ còn cảm thấy tình người. Quên rằng đó là tiếng nói của ai, người ta thấy nó như tiếng ca từ trong lòng mình, như là của mình vậy" (Tố Hữu).


    Trong nhịp bước phát triển của thế giới công nghệ ngày nay, cụm từ "thế giới riêng" đã chẳng còn xa lạ với chúng ta. Không ít người tạo ra một không gian riêng trên nền tảng mạng xã hội, họ cho rằng đó là thế giới của họ và hễ khi người khác phạm sai lầm, tâm lý đám đông khiến họ sẵn sàng mỉa mai, buông những câu nói lạnh lùng làm tổn thương người khác, và rồi, chúng ta dần xa nhau, mất đi sợi dây kết nối tâm hồn với tâm hồn. Bởi vậy, câu nói không chỉ đúng với nhà văn mà còn có giá trị trong thời đại hôm nay, thế giới của mình nhưng không phải vị kỉ, không phải cho riêng mình!


    "Viết ra không phải là việc khó; cái khó là phải có những câu chuyện gì đáng kể để kể, những tư tưởng gì đáng ghi để ghi" (Jérôme và Jean Tharaud).

    Hình minh hoạ
    Hình minh hoạ
  3. Albert Einstein đã từng nhận định: “Cái tôi và sự hiểu biết tỉ lệ nghịch với nhau. Hiểu càng nhiều, cái tôi càng bé. Hiểu càng ít, cái tôi càng to”. Thật vậy, sông càng sâu thì càng phẳng lặng, núi càng cao lại càng cúi đầu. Điều này gợi nhắc tôi nhớ đến câu nói “Hữu xạ tự nhiên hương”. Thế nhưng trong thời đại cách mạng công nghiệp 4.0 như hiện nay, câu nói này đã khiến ta phải suy nghĩ đến quan niệm xây dựng hình ảnh bản thân có còn “Hữu xạ tự nhiên hương” hay không?


    “Hữu xạ tự nhiên hương” là một thành ngữ Hán Việt mà ở đó, từng từ đều mang nét nghĩa riêng. “Hữu” có nghĩa là hiện hữu, tồn tại còn “xạ” là hương thơm xạ hương. Từ “xạ” có nguồn gốc từ tuyến hươu xạ sống ở phía Nam Trung Quốc. Chất xạ có mùi rất đặc trưng, thơm một cách đặc biệt. “tự nhiên hương” được hiểu là có mùi từ nhiên, hương thơm tự nhiên, xuất phát từ bản thân vật chủ mà không cần tác động. Như vậy, nếu ghép nghĩa của các từ lại, ta sẽ hiểu được câu nói này. Giống như chất xạ mang trong mình hương thơm khác biệt ắt sẽ được trọng dụng và yêu thích, “Hữu xạ tự nhiên hương” đề cập đến vấn đề bản thân con người nếu có “hương thơm”, có “chất riêng” thì sẽ tự thu hút, hấp dẫn những thứ khác. Hiểu một cách sâu xa hơn, câu thành ngữ Hán Việt này mang lại cho chúng ta bài học triết lý làm người về sự khiêm tốn. Nếu ta sống lương thiện, sống có đức, có tài thì người khác sẽ tự nhận ra điểm tốt của ta mà không cần phải khoe khoang, phô bày. Nếu trong bất cứ lĩnh vực nào, chỉ cần ta tận tâm, tận lực làm tốt bổn phận và trách nhiệm của bản thân thì sẽ đến một lúc “hữu xạ” và sẽ “tỏa hương” mà không cần bất kỳ tuyên bố phô trương, ầm ĩ nào. Cuốn sách chữ Hán “Tam tự kinh” có câu nói “Nhân chi sơ, tính bản thiện”. Trong bản thân mỗi con người đều có bản tính hiền lành, lương thiện nhưng liệu trong quá trình trưởng thành, tu dưỡng, ta có giữ và phát huy được phẩm chất đó không hay là dễ dàng bị dụ dỗ, sa đọa và làm những điều lầm lỡ. Vì vậy “Hữu xạ tự nhiên hương” còn là lời khuyên con người nên tu tâm dưỡng tính, rèn sức luyện tài ắt sẽ không phụ lòng.


    Con người từ khi sinh ra đều là những trang giấy trắng, là những số không tròn trĩnh. Trong quá trình lớn lên và trưởng thành, mỗi người tự gây dựng, gặt hái được những thành tích cho bản thân theo những con đường khác nhau. Dù trong bất kỳ lĩnh vực nào, khi mỗi người đều hoàn thành tốt công việc, làm tròn bổn phận và trách nhiệm của bản thân thì sẽ kiến tạo nên những giá trị nhất định. Những điều đó nó sẽ tự tỏa sáng theo cách riêng mà không cần bất kỳ ánh đèn sân khấu nào soi chiếu. Đồng thời khi tập trung phát triển và hoàn thiện cái “tôi” của riêng mình thì theo thời gian, ta của ngày hôm nay sẽ tốt hơn ta của ngày hôm qua. Ngày qua ngày, ta trưởng thành hơn, có nhiều trải nghiệm và kinh nghiệm sống hơn. Khi trên người hội tụ đầy đủ những giá trị, phẩm chất tốt đẹp thì tự khắc, người đời tự biết đến ta là ai? Đó là bản chất của “Hữu xạ tự nhiên hương”.

    Nhìn rộng ra thế giới, người ta biết đến tên tuổi của William Shakespeare là người “Hữu xạ tự nhiên hương”. Có lẽ nếu ông không sáng tác những tác phẩm nổi tiếng, mang đặc trưng riêng của bản thân, được người đời biết đến là nhà soạn kịch danh tiếng thì mãi mãi chỉ là một diễn viên vô danh trong nhà hát hay là một chân nhắc tuồng. Với những phát minh vĩ đại dành cho nhân loại, nhưng Einstein cũng chưa bao giờ khẳng định mình là một người tài giỏi: “Tôi chỉ là một người bình thường như bao người khác thôi, cũng sống và làm công việc mình yêu thích, sao lại gọi tôi là người nổi tiếng”. Thật vậy, những người nổi tiếng chân chính đều là người kiến tạo những giá trị cần thiết và có ích cho cuộc sống của nhân loại nhưng chẳng một ai thừa nhận mình là người tài giỏi. Chính điều đó đã thu hút ánh nhìn của mọi người về họ và họ cứ tỏa sáng theo cách riêng của bản thân giống như vì sao tinh tú trên bầu trời bao la.


    Trong thời đại hiện nay, việc xây dựng hình ảnh cá nhân là điều quan trọng và cần thiết đối với mỗi người. Điều đó vừa là động lực thúc đẩy ta tiến bộ, phát triển qua từng ngày đồng thời sẽ đem đến lợi ích cho chính bản thân mình. Nếu xây dựng được hình ảnh cá nhân tốt từ ban đầu, ta sẽ tiết kiệm được thời gian cho những thử nghiệm, hạn chế sai sót, vấp ngã. Có lẽ chúng ta không quá xa lạ với Trần Khánh Vy - người biết đến với biệt danh đầu tiên là hot girl 7 thứ tiếng. Dù ban đầu, cô cũng gây tranh cãi về khả năng phát âm nhiều ngoại ngữ của mình nhưng đó cũng chính là động lực Khánh Vy trưởng thành như hiện tại. Cô đã từng bước, đặt từng viên gạch để xây dựng thương hiệu cá nhân như hiện nay với bảng thành tích học tập khủng tại Học viện ngoại giao, trở thành Host của IELTS Face Off đồng thời là người dẫn chương trình của chương trình truyền hình “Đường lên đỉnh Olympia”. Cô là người truyền cảm hứng rất nhiều cho các bạn trẻ về năng lượng sống tích cực và con đường chinh phục ngoại ngữ. Phải nói cô là một trong số những người trẻ gây dựng thương hiệu rất thành công.


    Đại Văn hào Lev Tolstoy đã từng nói “Người ta như một phân số mà tử số là giá trị thật của người ta, còn mẫu số là giá trị mà người ta tưởng tượng là mình có. Mẫu số càng to thì phân số càng nhỏ. Khi mẫu số là vô cùng tận thì phân số bằng không”. Tuy nhiên, trong thời đại bùng nổ công nghệ số như hiện nay, liệu “Hữu xạ” có “tự nhiên hương”? Giữa thời đại vật chất quyết định ý thức, liệu con người có bị cuốn theo xã hội đồng tiền để bất chấp tất cả mà đánh đổi sự nổi lên nhất thời của mình bằng những tai tiếng về sau hay không? Liệu có người “không hữu xạ” mà vẫn được mọi người biết đến không? Đó là những câu hỏi khiến ta phải băn khoăn, trăn trở. Quả thật, trong thời đại bùng nổ và cạnh thông tin như hiện nay, có một bộ phận không nhỏ sợ rằng thế giới không biết mình là ai nên đã quảng cáo rầm rộ và nhờ truyền thông để nâng tầm giá trị. Lâu dần, người ta chẳng còn ngạc nhiên với việc quảng cáo khác xa với sự thật, từ cá nhân cho đến tập thể, thương hiệu. Đôi lúc, nhiều người không có “hữu xạ” nhưng vẫn muốn được người đời biết đến nên đã làm những điều vốn dĩ bản thân không có, sống không thật với lương tâm. Vì nóng lòng muốn nổi tiếng, muốn thành công nên đã ngụy tạo bằng chứng, giả dối.

    Ngày nay, xây dựng hình ảnh cá nhân, gây dựng thương hiệu là điều cần thiết nhưng không phải vì vậy mà bất chấp mọi thủ đoạn. Dù “hữu xạ” rồi “tự nhiên hương” hay “hữu xạ” nhưng dùng những cách khác nhau để người khác biết đến thì đều đáng quý, chỉ cần “hữu xạ” một cách đúng nghĩa bởi khi đã “hữu xạ” thì “tự nhiên hương” chính là những trái ngọt mà ta xứng đáng được nhận. Thay vì xây dựng bản thân bằng những điều rỗng tuếch thì hãy tạo dựng hình ảnh ấy là những giá trị, những “chất” bên trong con người. Chỉ cần mình là ánh sáng, mình thực sự vẫn sẽ tỏa sáng hay nói cách khác, việc của mình không phải là đuổi theo những vì tinh tú mà tỏa nắng như ánh mặt trời.


    “Hữu xạ tự nhiên hương” là một thông điệp đúng đắn, trường tồn mãi theo thời gian. Khi chúng ta có niềm tin vào bản thân là ánh sáng thì chắc chắn sẽ tỏa sáng. Ngắm nhìn thế giới tươi đẹp, tôi nhận ra bản thân còn những điều chưa tốt. Nhưng qua câu thành ngữ này, tôi muốn tỏa sáng theo cách riêng của bản thân nên chắc chắn, tôi sẽ lập ra kế hoạch cụ thể để hành động, hoàn thiện và phát triển bản thân. Và tôi tin rằng qua từng ngày, tôi sẽ trưởng thành hơn và sẽ “Hữu xạ tự nhiên hương” theo năm tháng.


    Trong bức thư thứ 805 của quyển sách “999 lá thư gửi cho chính mình” được chắp bút bởi Miêu Công Tử có đoạn viết “Đừng đuổi theo một con ngựa. Hãy dành thời gian trồng cỏ, đợi đến khi xuân sang hoa nở, tự khắc sẽ có một đàn tuấn mã tìm đến để bạn tùy ý lựa chọn”. Ta hãy cứ hoàn thiện bản thân qua từng ngày, là phiên bản tốt nhất của chính mình rồi sẽ “Hữu xạ tự nhiên hương”. Hãy khiêm tốn, hãy học hỏi rồi sẽ có thật nhiều cánh cửa rộng mở với bạn.

    Hình minh hoạ
    Hình minh hoạ
  4. Những vần thơ Anđécxen, những vần thơ ngân vang từ thung lũng Ôđenzơ, nơi có những hẻm núi sương giăng mờ ảo và những vòm hoa thạch thảo tim tím nên thơ đã gieo vào tâm hồn nhà văn Pauxtôpxki niềm xúc cảm mãnh liệt: “Anđécxen đã lượm lặt hạt thơ trên luống đất của người dân cày, ấp ủ chúng nơi trái tim ông rồi gieo vào những túp lều, từ đó lớn lên và nảy nở những bó hoa thơ tuyệt đẹp, chúng an ủi trái tim những người cùng khổ”. Thơ ca, hai chữ kì diệu mà muôn đời vẫn chưa tìm ra một định nghĩa trọn vẹn, hòan chỉnh. Thơ là gì ? Thơ bắt nguồn từ đâu ? Thơ có mãnh lực gì khiến cung đàn cảm xúc của triệu triệu con người trên trái đất này không ngừng lay động, thổ thức, xuyến xao ? Phải chăng “thơ” ở đây như trong lời bình của nhà văn học Nga V.Bêlinxki vào thế kỉ mười chín”:


    Từ thủa thơ ca xuất hiện mang đến hơi thở ấm áp cho hành tinh xanh xanh những đại dương và điệp trùng những cánh rừng tươi thắm của chúng ta, có thể nói chưa bao giờ tổng kết được những định nghĩa về thơ. Có người cho thơ là “lơ tơ mơ”, “thơ là sự tuôn trào bột phát những tình cảm mãnh liệt”, thậm chí “thơ là một cái gì mà người ta không định nghĩa được”. Phải chăng vì thế mà thơ thuộc về cõi huyền nhiệm, mông lung, xa vời vợi? Không, theo quan niệm của Bêlinxki, thơ là một khái niệm hết sức gần gũi: “Thơ trước hết là cuộc đời”. Trong câu nói của Bêlinxki, chữ “cuộc đời” như một vì sao được chiếc đòn bẫy “trước hết” bật vào từ thơ, làm sáng lên một ánh sáng lung linh, rạng rỡ. Thơ ca bắt nguồn từ cuộc sống.

    Cuộc sống bao giừ cũng là nguồn cảm hứng mênh mông bất tận của những tâm hồn nghệ sĩ. Thơ ca cũng như văn chương và các loại hình nghệ thuật khác, nếu không bám rễ vào cuộc đời, nếu không hút nguồn nhựa sống dạt dào ngầm chảy trong lòng cuộc sống thì nó sẽ mãi mãi là một cây non èo buộc, không mang trên mình những cành cây săn chắc, những phiến lá xanh tươi phơi phới dưới ánh nắng mặt trời. Là nhà thơ, ngòi bút của anh phải chấm vào nghiên mực cuộc đời thì thơ anh mới tươi màu neo chặt trong bến tâm hồn người thưởng thức. anh sĩ Lê Quí Đôn từng nói: “Trong bụng không có ba vạn quyển sách, trong mắt không có cảnh núi non kì lạ của thiên hạ thì không thể làm thơ được”. Có thể nói cuộc đời là mạch sữa ngọt ngào tuôn chảy không ngừng từ thế hệ này sang thế hệ khác để nuôi dưỡng thi ca. đến với Chế Lan Viên, một “triết gia thi sĩ”, ta không quên giây phút con người ấy rơi vào hố sâu tuyệt vọng của sự chán chường

    “Hãy cho tôi một tinh cầu giá lạnh
    Một vì sao trơ trọi giữa trời xa
    Để nơi ấy tháng ngày tôi lẩn tránh
    Những ưu phiền, đau khổ với buồn lo”

    Thế mà cuộc sống mới chan hòa hơi thở nồng ấm của cách mạng đã làm tan mọi băng giá trong trái tim thi sĩ. Người sà vào lòng nhân dân, sung sướng đón nhận nguồn cảm hứng thi ca từ cuộc đời:

    Con gặp lại nhân dân như nai về suối cũ
    Cỏ đón giêng hai chim én gặp mùa
    Như đứa trẻ thơ đói lòng gặp sữa
    Chiếc nôi ngừng bỗng gặp cánh tay đưa”
    (Tiếng hát con tàu).

    Cuộc sống mên mông và kì diệu làm sao ! Cuộc sống là nơi cung cấp chất liệu cho thơ. Thơ ca bắt nguồn từ cuộc sống, cho nên thơ bao giờ cũng chứa đựng bóng hình cuộc sống, bóng hình con người. Thơ ca là nơi con người gửi gắm tâm tình, ước mơ, khát vọng, những băn khoăn, rạo rực, ưu tư. Thơ ca không thể tách rời cuộc đời. Cuộc đời ban truyền nguồn nhựa sống mãnh liệt cho thơ và thơ nở hoa làm đẹp cuộc đời, cống hiến cho con người những phút giây tuyệt vời lắng đọng nhiều nỗi suy tư. đến với thơ, người đọc trước hết sẽ bắt gặp tâm tư, nỗi lòng của người cầm bút, sau đó sẽ gặp chính tâm tư của mình bởi thơ là “tiếng nói đồng ý, đồng tình, đồng chí”. Cùng với văn chương, thơ ca trở nên những nhịp cầu vô hình dẫn dắt những tâm hồn đến với tâm hồn., những trái tim đến với trái tim để con người cùng sẻ niềm vui, nỗi buồn, ước mơ, hi vọng.

    Cuộc đời vốn bao la, vô tận kia như một bức tranh với ba chiều không gian trải dài đến vô cùng. Nhà thơ cũng như những con ong cần mẫn bay lượn trong khu vườn cuộc đời ấy:

    “Nhà thơ như con ong biến trăm hoa thành một mật
    Một mật ngọt thành, đời vạn chuyến ong bay
    (Chế Lan Viên)

    Thơ ca “là cuộc đời”, nhưng thơ ca không phải là những trang giấy in nguyên vẹn bóng hình của cuộc đời rộng lớn. Người nghệ sĩ phải tìm đến cuộc đời để hút lấy chất mật tinh tuý nhất, ngọt ngào nhất để tạo nên những vần thơ thật sự có giá trị. Nhà thơ phải biết chắt lọc chất liệu mà cuộc đời cung cấp, từ đó mới tạo nên những vần thơ hay, làm rung động lòng người đọc. Thi ca gắn liền với cảm xúc. Nhà thơ không thể hiện cuộc đời qua những tình huống, qua những sự kiện như các nhà văn. Nhà thơ giãi bày bằng cảm xúc, bằng ngôn ngữ thi ca, bằng cả “khoảng trắng giữa các ngôn từ”. Thơ ca có giá trị không tách rời sự thoát li, tách rời khỏi cuộc sống, cũng như sự cuộc sống một cách cứng nhắc, khuôn mẫu. Đọc thơ mà chẳng tìm thấy nỗi lòng nhà thơ, đấy chẳng phải là thơ ca đích thực ! Nếu không có một thiên tài như Nguyễn Du uyên bác, ta không thể có “Truyện Kiều”. Nhưng nếu không có những lầm than cơ cực, đắng cay, tủi nhục cùng với những ước mơ cháy bỏng của nhân dân trong xã hội phong kiến, trong buổi suy vong đầy ngột ngạt, ta cũng không thể có những trang Kiều thấm đượm dòng lệ đầy chất nhân bản sâu xa.

    Nếu không có một vùng quê Kinh Bắc êm ả, bình dị với những con người chăm chỉ, hiền hòa, mãi mãi ta không thể nào có được nỗi nhớ rạo rực thiết tha của thi sĩ hòang Cầm trong bài “Bên kia sông Đuống:

    “Em ơi buồn làm chi
    Anh đưa em về bên kia sông Đuống
    Ngày xưa cát trắng phẳng lì…

    Xanh xanh bãi mía bờ dâu
    Ngô khoai biêng biếc
    Đứng bên này sông sao nuối tiếc
    Sao xót xa như rụng bàn tay”

    Thơ bao giờ cũng in đậm chữ “đời” trước hết. Cuộc đời không chỉ ban cho nhà thơ nguồn cảm hứng mà cuộc đời còn là nơi khai thác “chất quặng” nguồn từ để tạo nên thơ:

    “Vạt áo của nhà thơ không bọc hết bạc vàng mà cuộc đời rơi vãi
    Hãy nhặt lấy chữ của đời mà góp nên trang”
    (Chế Lan Viên)

    Thơ ca là hoa thơm của cuộc đời. Nếu chỉ được kiến tạo từ trí tưởng tượng và “cái tôi” nhỏ bé của người nghệ sĩ, thơ ca chỉ là những bông hoa làm bằng “vỏ bào”(Pauxtôpxki). Nhà thơ phải nhặt những hạt “bụi quí” trong cuộc đời mênh mông vô tận để làm nên những “bông hồng vàng” quí giá, đem lại niềm vui và cái đẹp cho tâm hồn người đọc thơ, hiểu thơ và yêu thơ, theo cách diễn đạt của Pauxtôpxki.

    Trở lại câu nói của nhà phê bình Bêlinxki, ta thấy đó không phải là cái nhìn phiến diện. “Thơ trước hết là cuộc đời” nhưng cuộc đời chưa phải là tất cả. Bêlinxki rời phím nhấn “cuộc đời” ấn tay vào phím cạnh bên “nghệ thuật”. Như vậy, Bêlinxki đã không phủ nhận vai trò quan trọng của yếu tố làm nên thi ca này. Thiếu nghệ thuật, thơ chỉ còn là hòn ngọc thô không mài không giũa, không thể khơi dậy trong trái tim con người những rung động sâu xa. Thơ có thể ví như cánh diều, cuộc đời tạo cho cánh diều là hình hài sắc vóc còn nghệ thuật là làn gió nâng cánh diều bay bổng trên bầu trời cao rộng, nâng cảm xúc đến mức thăng hoa. Ta yêu “Truyện Kiều” đâu chỉ vì “đoạn trường tân thanh” xé ruột cất lên từ quãng đời mười lăm năm lưu lạc truân chuyên của cánh hoa Thuý Kiều tài sắc. Người Việt Nam yêu “Truyện Kiều” vì những “ngôn ngữ gấm hoa” giàu sức biểu cảm, vì âm hưởng ca dao dịu dàng, man mác trong lục bát thân thương:

    Long lanh đáy nước in trời
    Thành xây khói biếc non phơi bóng vàng

    Cảnh mùa thu long lanh, mĩ lệ đọng đầy chất thơ ấy có lẽ còn sống mãi trong lòng người dân đất Việt đến nhiều thế kỉ mai sau.

    Thơ cất lên từ biển cuộc đời và bay cao từ nguồn gió nghệ thuật. Nghệ thuật làm cho thơ trở nên đẹp đẽ, gieo vào lòng người đọc những cảm xúc thẩm mĩ tuyệt vời. Một nhà thơ tài năng phải là một người thợ lặn lành nghề lặn sâu vào đại dương cuộc sống, không phải để nhặt nhạnh mảnh san hô tầm thường mà để tìm những viên ngọc trai lấp lánh, những “khối tình con” kết từ máu huyết của loài trai nhẫn nại, cần cù (một ý của Nguyễn Tuân trong tác phẩm “Người lái đò sông Đà”). Nhà thơ chỉ cần rung động trước lớp sóng của cuộc đời thôi ư ? Chưa đủ, như thế anh chỉ có cái tâm mà chưa có cái tài để xứng đáng mang danh hiệu “thi sĩ”.

    Để viết nên những vần thơ có sức lay động thực sự, có khả năng vượt qua mọi định luật băng hoại của thời gian không thừa nhận cái chết (Satưkhốp Sêđrin), nhà thơ phải vừa có tài năng và tâm huyết, vừa đắm mình vào cuộc đời, vừa không ngừng tìm tòi khám phá, “khơi những nguồn chưa ai khơi”. Một nhà thơ nước ngoài đã từng thấm thía giá trị cao quí của lao động thi ca:

    “Phí tổn ngàn cân quặng chữ
    Để thu về một chữ mà thôi
    Những chữ ấy làm cho rung động
    riệu trái tim trong hàng triệu năm dài”

    Nhà thơ phải “trả giá cắt cổ” cho ngôn ngữ thơ ca nếu muốn những vần thơ ấy trở nên bất tử. Lao động nghệ thuật là hình thức lao động của trí óc và trái tim. Phải có những rung động mãnh liệt trước cuộc đời và những khám phá, sáng tạo độc đáo ta mới có thơ ca chân chính.

    Viết về mùa thu, thi sĩ từ cổ chí kim đã dùng bao hình ảnh tuyệt đẹp, từ “Ngô đồng nhất diệp lạc” đến “cúc vàng lưng giậu”, từ “non phơi bóng vàng đến” “trăng sáng như gương”… Thế mà cậu bé Trần Đăng Khoa lại cảm nhận mùa thu theo một cách riêng qua hình ảnh hoa cau giản dị:

    “Nửa đêm nghe ếch học bài
    Lưa thưa vài hạt mưa ngoài hàng cây
    Nghe trời trở gió heo may
    Sáng ra vại nước rụng đầy hoa cau”
    (Hoa cau)

    Những cánh hoa cau trắng muốt mỏng manh rụng đầy vại nước làng quê phải chăng là “hoa cau cuộc đời” hoá thành “hoa cau nghệ thuật” trong thế giới thơ phong phú đầy tưởng tượng bay bổng của nhà thơ tí hon dễ yêu, dễ mến ? Hoa cau thoang thoảng thơm mãi con đường thi ca trải rộng, quấn quýt êm đềm trong trái tim những người yêu thơ…

    “Thơ trước hết là cuộc đời, sau đó mới là nghệ thuật”. Ý kiến của Bêlinxki thật xúc động và đầy giá trị ! đến với thơ nghĩa là ta đến với cuộc đời qua lăng kính nghệ thuật của nhà thơ. Thơ ca khơi dậy trong lòng ta lớp lớp những đợt sóng cuộn trào và muôn vàn cung bậc tình cảm: yêu thương, căm giận xót xa, nghẹn ngào, xao xuyến, bâng khuâng,… bởi thơ là đời, thơ là hoa nảy nở từ mảnh đất cuộc đời dào dạt nhựa sống. Thơ không phải là thứ tôn giáo cao siêu huyền bí, cũng không phải là những ghi chép tủn mủn, vặt vãnh vô giá trị về cuộc đời, về con người quanh ta. Thí sĩ không thể làm nên thơ nếu cửa lòng đóng khép, nếu không “mở hồn ra đón lấy tất cả những vang động của đời” (Nam Cao). Cuộc sống cuộn xoay không một giây dừng lại, thơ ca cũng không ngừng nảy nở sinh sôi, cống hiến cho đời những đoá hoa đẹp nhất.

    Thi sĩ ơi, anh hãy sáng tác bằng cả nhiệt huyết và tình yêu cháy bỏng của trái tim mình.

    Cuộc sống đánh vào thơ trăm ngàn lớp sóng
    Chớ ngồi trong phòng ăn bọt bể anh ơi !
    (Chế Lan Viên)

    Bắt nguồn từ cuộc sống, qua lăng kính cảm nhận của thi nhân, thơ ca lại trở về với đời, tạo dòng chảy trong trái tim người thưởng thức. Thư ca mang đến cho con người những gì ? Thơ ca phải chăng chỉ để giết thời gian hoặc làm cho người ta bị mê hoặc? Thơ ca chân chính không phải là một loại hình nghệ thuật mang tính chất giải trí đơn thuần. Song hành cùng người bạn cốt văn chương, thơ ca mở ra những ngả đường hướng triệu triệu con người tới cõi chân- thiện – mĩ. Thơ ca đích thực phải là thơ ca khơi dậy những rung động sâu sắc trong tâm hồn con người, làm phong phú thế giới cảm xúc của con người, khiến con người vươn tới ước mơ sống tốt hơn, đẹp hơn. Nhà thơ Thanh Hải đến phút cuối đời trên giường bệnh vẫn khát khao cống hiến cho đời những giọt xuân trong trẻo:

    Ta làm con chim hót
    Ta làm một cành hoa
    Ta nhập vào hòa ca
    Một nốt trầm xao xuyến.
    (Mùa xuân nho nhỏ)

    Làm sao lòng ta không rạo rực trước sức sống mãnh liệt, dạt dào của một nhà thơ yêu đời, yêu người tha thiết đến nhường ấy! Nhà thơ đã vượt qua chính mình để làm một nốt trầm lặng lẽ. Mình có ích giữa muôn vàn âm thanh sôi động của cuộc đời muôn màu, muôn vẻ này chưa ?

    Thơ ca khơi dậy trong con người những cảm xúc thẩm mĩ tuyệt đẹp, “thanh lọc” tâm hồn con người, chắp cánh cho con người bay tới những ước mơ, khát vọng. Trên cõi hành trình dài đằng đẵng đầy chông gai của đời người, có những lúc dừng chân ngơi nghỉ , ta không thể không nghĩ về cuộc đời, về những điều tốt đẹp. Bao giờ ta còn đồng cảm với tấm lòng thi nhân, khi ấy thơ ca vẫn còn tồn tại sức sống bất diệt, vĩnh cửu.

    Anđecxen không chỉ là bậc thần tiên tạo nên những trang cổ tích làm say mê biết bao thế hệ con người mà còn là nhà thơ chân chính mà “thơ của ông làm no nê trái tim người dân chẳng khác gì triệu triệu những hạt bụi nước li ti làm bão hòa không khí trên đất đai Đan Mạch. Người nói vì thế mà không ở đâu có cầu vồng rộng lớn và rạo rực như ở nơi này” (Pauxtôpxki).

    Thơ ca thật kì diệu và đáng quí! Đã là thi sĩ, một khi cầm bút, anh không được phép phân biệt giữa mình và người, mà phải “viết hết mình cho người” (Tố Hữu). Có như thế thơ ca của anh mới sống mãi mãi với cõi đời này.

    Thơ là cuộc đời cho nên thơ không chỉ khơi dậy những cảm xúc êm đềm, dịu dàng, êm ái; không chỉ làm lòng ta quặn đau trước những nỗi “đoạn trường”. Thơ ca đồng thời phải mang chức năng “thức tỉnh lương tri đang ngủ” (Eptusencô), phải khiến con người biết căm giận và biết ước mơ. Có những lúc thơ ca biến thành vũ khí độc đáo giúp con người đấu tranh với cái ác để bảo vệ chính nghĩa và cái đẹp của cuộc đời. đấy là giây phút Hồ Chí Minh gửi gắm niềm tin mãnh liệt vào những vần thơ mà xích xiềng không khoá nổi:

    Ví đâu có cảnh đông tàn
    Thì đâu có cảnh huy hòang ngày xuân
    Nghĩ mình trong bước gian truân
    Tai ươn rèn luyện tinh thần thêm hăng.

    Ngược dòng thời gian, ta còn thấy đó là giây phút Lí Thường Kiệt cất tiếng sang sảng đọc tuyên ngôn Nam quốc sơn hà khẳng định chủ quyền độc lập của non sông. Giá trị của thơ ca mới cao cả đến nhường nào!

    Trở về với hiện tại thơ ca hôm nay, ta bắt gặp những dáng hình thi sĩ trên những ngả đường thơ trải rộng, đang từng bước khám phá, tìm tòi và sáng tạo, đem lại nguồn mới cho thi ca. Phải chăng họ đang đặt chân lên hành trình đến với “Mảnh đất nở hoa dâng tặng người muốn hái” ?

    Thi sĩ ơi, dù phải theo ngả nào, có lẽ anh cũng nên tâm niệm: “Thơ trước hết là cuộc đời, sau đó mới là nghệ thuật”.

    Ý kiến về thơ của nhà phê bình văn học Nga V.Biêlinxki quả thật đáng để chúng ta suy nghĩ và nghiền ngẫm. Thơ đâu phải là quả bóng bay xa vời vợi nằm ngoài tầm bắt. Thơ ca luôn nồng nàn, ấm áp hơi thở cuộc đời và mang dấu ấn sáng tạo nghệ thuật của người cầm bút. Thơ là dòng sông soi bóng cuộc đời, len vào tâm hồn con người những mạch nguồn cảm xúc dạt dào chảy mãi không thôi. Nhà thơ phải “yêu cuộc đời” và trân trọng “nghệ thuật” mới vun đắp những vần thơ nở ra cánh hoa thơm ngát tô điểm cho cuộc đời và con người.

    Ngày xưa, tôi yêu văn thơ Anđecxen bởi nơi ấy bao giờ cũng rung rinh đoá hồng bạch toả hương ngào ngạt bên những nàng công chúa xinh tươi. Nay tôi lại càng say mê những dòng văn đầy nhân ái kia bởi tôi còn cảm nhận được hương vị của cuộc đời, “chất người” ủ kín bên trong.
    Hình minh hoạ
    Hình minh hoạ
  5. "Ai bảo dính vào duyên bút mực

    Suốt đời mang lấy số long đong."


    Nguyễn Bính đã từng than thở như thế. Bao con người cũng phải gánh chị nỗi đau vì sự bạc bẽo của văn chương. Tai sao như vậy? Phải chăng nghệ thuật đòi hỏi rất cao ở người nghệ sĩ, đúng như Lêônit Lêônôp đã yeu cầu: "Mỗi tác phẩm là một phát minh về hình thức và một khám phá về nội dung".

    Cũng như ý kiến của Xuân Diệu, Nguyễn Tuân nhà văn Nga muốn khẳng định các nghệ sĩ phải trau dồi cá tính sáng tạo của mình. Mỗi tác phẩm phải kà một sự hiện diện của nhà văn đối với cuộc đời. Do vậy cái mới, cái độc đáo trong phong cách của người sáng tác phải thể hiện ơ sự tìm tòi cái mới về nghệ thuật cũng như nội dung. Nghệ thuật là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan. Hiện thực cuộc sống là kho đề tài vô tận để người nghệ sĩ khám phá, phát hiện, nhưng đối với mỗi cây bút, nó lại được chiếu rọi dưới một ánh sáng riêng. Nghệ sĩ là người biết khai thác những ấn tượng riêng chủ quan của mình và biết làm cho ấn tượng ấy có được hình thức riêng biệt, độc đáo. Đúng như vậy, sự lặp lại tẻ nhạt là cái chết của nghệ thuật.

    Cuộc sống bày ra trước mặt biết bao cảnh ngộ, số phận. Người nghệ sĩ hơn những người bình thường ở chỗ biết tìm ra những hiện tượng đặc sắc có thể nói lên rõ rệt bản chất của hiện thực. Độc giả tìm đến với tác phẩm trước hết là để bồi đắp tâm hồn, làm phong phú hơn vốn tri thức. Vì lẽ đó, người sáng tác phải đem đên cho họ một cái nhìn mới, mang đậm dấu ấn chủ quan.

    Cuộc sống là phong phú vô tận, nhưng sự hiểu biết và hứng thú của nhà văn thì có hạn. Do đó ngoài việc tìm đến những mảnh đất mới của hiện thực để gieo mần tư tưởng, người nghệ sĩ phải biết phát huy vố ấn tượng riêng của mình để tìm ra những gì mới mẻ trong những đề tài quen thuộc. Có như vậy, nhà văn mới tránh khỏi sự lặp lại vô nghĩa những điều mà người khác đã nói. Nói cách khác, mỗi nghệ sĩ phải tìm ra cho mình một con đường riêng để đến với cuộc sống và trái tim bạn đọc. LepTônxtôi đã từng nói với những người viết văn trẻ, đại ý: Nào, các anh có đem đến cho chúng tôi một cái gì mới khác với những người đến trước anh không? Bàn về thơ Nguyễn Tuân cũng khẳng định: "Thơ là đã mở ra được một cái gì đó mà trước câu thơ đó, trước nhà thơ đó, vẫn như là bị đóng kín".

    Mỗi tác phẩm là một thông điệp thẩm mỹ mà người nghệ sĩ gửi đến bạn đọc. Do đó trước hết mỗi tác phẩm là một "khám phá về nội dung". Muốn vậy, nhà văn không chỉ là "người thợ khéo tay, làm theo một vài kiểu mẫu đưa cho", mà phải biết "đào sâu, biết tìm tòi, khơi những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo những gì chưa ai có" (Nam Cao). Nhà văn phải biết nhì sâu vào cuộc sống, hiểu về tâm hồn của con người để khám phá ra những vấn đề mới, cất tiếng nói riêng của mình với cuộc đời. Trong nghệ thuật, nội dung và nghệ thuật gắn bó chặt chẽ, mật thiết với nhau. Nội dung là nội dung của hình thức, hình thức là hình thức của nội dung. Một nội dung mới sẽ tìm cho mình một hình thức mới. Sự thay đổi về hình thức biểu hiện cũng có thể kéo theo sự thay đổi về nội dung. Có khi nhà văn đề cập đến những vấn đề của muôn đời nhưng lại nói với giọng điệu riêng, âm sức riêng của tâm hồn mình; do vậy tác phẩm vẫn đem đến cho người đọc cái mới đáng quý.

    Cái độc đáo sáng tạo về nội dung và hình thức của tác phẩm tạo nên phong cách riêng của người nghệ sĩ không phải là chuyện cách nói mà chủ yếu là vấn đề cách nhìn, một cách nhìn nếu không do nghệ sĩ đem lại thì không bao giờ có được. Cái mới không chỉ đơn thuần thuộc về nội dung hay nghệ thuật một cách cực đoan, có nghĩa là không chỉ đơn thuần tìm ra cái mới trong hình thức mà trước hết phải xuất phát từ các mới của nội dung. Khi cả tác phẩm toát lên cốt cách riêng, phong vận riêng mới lạ thì nó sẽ tác động mạnh mẽ vào người tiếp nhận. Người nghệ sĩ đi sâu vào cái chủ quan, cái cá nhân của mình, mặt khác vẫn phải gắn bó với cuộc sống để không đẩy sự mới lạ lên thành cá nhân chủ nghĩa.

    Mỗi thời đại, mỗi tác giả góp vào dòng chảy văn học một cách cảm nhận mới, một niềm trăn trở khác nhau và một cách nói mới. Điếu này sẽ tạo ra tính liên tục, phát triển sự phong phú của nền văn học. Mỗi gia đoạn văn học, mỗi nghệ sĩ có một bản sắc riêng, một diện mạo riêng. Chính những phát minh về hình thức đã góp phần làm cho văn học nhân loại vận động từ kiểu sáng tác này đến kiểu sáng tác khác.

    Trong văn mạch dân tộc, nhìn trên diện rộng cũng có thể thấy mỗi thời đại để lại một khí chất, mang một cảm hứng chủ đạo khác nhau. Văn học Lí, Trần, Lê lấy cảm hứng chủ đạo là lòng yêu nước, tự hào dân tộc. Sang giai đoạn cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX, các nhà nghệ sĩ lại bị ám ảnh hơn cả bởi vấn đề số phận con người. Họ không đi vào ngợi ca cảnh thài bình thịnh trị như văn học thời Lê mà xoáy sâu vào bi kịch của những thân phận con người. Mỗi tác phẩm lớn của thời kỳ này là một tiếng yêu thương mỗi cá nhân. Sang giai đoạn cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, cảm hứng nổi lên trong văn học chân chính lại là tình yêu mãnh liệt, khát vọng độc lập dân tộc. Vào những năm đầu của thế kỷ XX, các thi sĩ phong trào thơ mới nói lên khát vọng cởi trói cho cái "tôi" cá nhân của mình... Mỗi thờ đại có một nét riêng và cải riêng ấy dội vào tác phẩm với những âm hưởng khác nhau. Thú vị thật, độc đáo nhất với người đọc lá sự lắng nghe những giọng điệu riêng của mỗi tâm hồn nghệ sĩ. Lĩnh vực thử thách lớn nhất đối với tài năng người cầm bút là trong một đề tài quen thuộc, anh có thể nói lên được điều gì mơi lạ hay không. Bản sắc riêng, khí chất riêng của mỗi tâm hồn làm cho mỗi tác phẩm có một diện mạo riêng.

    Cũng viết về kỹ nữ, nhưng Bạch Cư Dị, Nguyễn Du, Xuân Diệu, Tố Hữu, mỗi người có một cách nhìn riêng, một cách nói riêng. Bằng khúc "Tì Bà Hàng", thi sĩ họ Bạch cất lên tiếng nói xót thương đầy cảm thông cho người phụ nữ tài sắc và cũng thể hiện nối đau trong chính số phận long đong, lận đận của mình. Tiếng hát của người kỹ nữ cất lên giữa đêm trăng cô vắng làm thức dậy bao nỗi niềm của chàng Tư mã áo xanh. Nỗi xót thương ấy, nỗi đau khổ ấy vẫn gặp trong văn học cổ điển. Thấm thía mà nhẹ nhàng, nỗi sầu muốn lan ra cùng cảnh vật:


    "Bến Tầm Dương đêm khuya đưa khách

    Quạnh hơi thu, lau lách đìu hiu"


    Không hiểu sao hai chữ "canh khuya" với mỗi tâm hồn Việt Nam lại có sức gợi đến thế? Không chỉ gợi cái khuya của thời gian mà còn chứa sẵn trong đó cảm giác bất trắc, muôn màng, e sợ. Nỗi buồn lan ra theo những dải tơ trời , khiến không gian như lặng ngắt để lắng vào cõi tâm tư, thấm vào lòng người và tràn ra thành dòng lệ. Nỗi đau ở đây là sự cộng hưởng của hai nguồn yêu thương: thương người và thương thân, tạo mối tình tri âm và tri kỷ, nói đúng hơn là tạo nên sự xót thương, đồng cảm giữa những nạn nhân đau khổ cùng một lứa bên trời lận đận. Mang tấm lòng đầy yêu thương đến với cái đẹp. Nguyễn Du lại nhìn thấy trong thân phận bất hạnh của người ca nữ nơi đấu Long Thành cả lẽ hưng phế của thời cuộc bể dâu, của một đời người đã trải qua bao cơn sóng gió, bao phen giang sơn thay chủ đổi ngôi. Cảm quan dâu bể thấm sâu trong từng câu chữ, tạo thành nỗi thương người, thương đời da diết của nhà thơ.

    Tất cả những cảm thương, đau đớn ấy thể hiện những nét tâm tình của con người trung đại, yêu thương mà bất lực, bất lực nhưng vẫn lặng lẽ nếm chịu nỗi đau. Sang đến thơ mới, cái "tôi" cá nhân thức dậy với sự tự ý thức về bản ngã rất mãnh liệt. Ở một hồn thơ cuồng nhiệt như Xuân Diệu, hình ảnh người kỹ nữ không đau xót một cách ngậm ngủi nàng như run lên vì đau khổ và giá lạnh.

    "Em sợ lắm. Giá băng tràn mọi nẻo

    Trời đầy trăng lạnh lẽo buốt xương da"


    Nàng như một linh hồn cô đơn bị vây phủ bởi bốn bề lạnh lẽo. Cái lạnh xuyên thấu vào tâm can. Trăng không "trong vắt" một cách tĩnh lặng, xa xôi mà từ cái sáng của vầng trăng còn toả ra hơi lạnh và sự cô đơn.

    Nếu như Bạch Cư Dị, Nguyễn Du, Xuân Diệu yêu thương mà vẫn bất lực, vẫn chỉ biết đau đời cất lên tiếng kêu tuyệt vọng với con tạo hay đánh ghen với khách má hồng, thì Tố Hữu lại đem đến cho chúng ta một niềm lạc quan, tin tưởng . Từ trong hiện tại còn bao nhục nhã, xót xa, thi sĩ đã hướng tới ngày mai, một ngày mai tươi sáng. Nhà thơ khẳng định cuộc đời đau khổ của người kĩ nữ kia sẽ đổi thay:


    "Ngày mai bao lớp đời dơ

    Sẽ tan như đám mây mờ hôm nay"


    Như vậy, cùng viết về người kĩ nữ, các nhà nghệ sĩ đã gặp nhau ở sự đồng cảm, xót thương. Nhưng mỗi tác phẩm lại có một linh hồn riêng, tạo nên sức sống riêng. Nếu Bạch Cư Dị, Nguyễn Du viết bằng thể thơ Đường luật thì Xuân Diệu lại sử dụng thể thơ tự do, thoát khỏi sự gò bó về niêm luật.

    Thiên nhiên cũng là một đề tài muôn thuở của văn chương nhưng không bao giờ cũ bởi mỗi thời đại, mỗi nghệ sĩ lại nhìn thiên nhiên ấy với một cảm quan riêng. Trong thơ cổ, thiên nhiên mang kích thước vũ trụ và thường được miêu tả như là bức tranh tĩnh lặng. Cảnh vật thiên nhiên được khắc hoạ bằng đoi nét chấm phá cốt ghi lấy cái linh hồn của tạo vật. Cũng là gió ấy, trời nước ấy nhưng thiên nhiên hiện lên trong mỗi tác phẩm một khác. Ta hãy cùng thưởng thức thiên nhiên trong thơ Nguyễn Trãi:


    "Nước biếc, non xanh thuyền gối bãi

    Đêm thanh, nguyệt bạc khách lên lầu."


    Cảnh vật hiện lên như bức tranh sơn thuỷ hữu tình. Màu xanh của nước hòa cùng màu xanh của non tạo nên một vẻ đẹp thanh nhã. Con "thuyền gối bãi" thật nhàn nhã, lặng lẽ. Cảnh tĩnh như không có chút xao động nào. Cả một bầu không khí thanh sạch, thơ mộng được mở ra. Nói là cảnh đêm mà sao ta vẫn thấy lung linh ánh sáng. Bến nước hay là bến thơ? Dường như không có chút bụi trần nào làm vẩn đục khung cảnh ấy. Hình ảnh con người - chủ thể trữ tình không đối diện với người đọc bằng một cái tôi cá thể một là nói về ai đó, có thể là một khách văn chương. Tư thế con người là đang vận động, đi lên cao, nhưng sao vẫn tĩnh lặng như không. Thi nhân thả hồn mình vào thiên nhiên, đắm say thiên nhiên, nhưng vẫn lặng lẽ, vẫn ung dung như đứng ngoài dòng chảy của thời gian. Ức Trai giao hòa với cảnh vật nhưng không hề làm cho nó động lên mà tất cả nhưng ngưng đọng lại.

    Đến thời Nguyễn Khuyến, thiên nhiên vẫn mang nét đơn sơ, tĩnh lặng ấy:


    "Trời thu xanh ngắt mấy tầng cao

    Câu trúc lơ phơ gió hắt hiu."


    Từ xanh gắt không chỉ gợi độ xanh mà còn gợi chiều cao, chiều sâu thăm thẳm. Không gian thanh sạch như được đẩy ra tới vô cùng. Cảnh có chuyển động nhưng thật khé khàng. Cái lơ phơ vừa gợi sự thưa thớt của lá trúc trên cầu trúc vừa gợi sự lay động nhẹ nhàng. Dường như cái lơ phơ ấy chỉ để nhận ra làn gió hắt hui.

    Cũng là mùa thu ấy, làn gió ấy khi vào thơ Xuân Diệu chúng trở lên khác hẳn:

    "Những luồng run rẩy rung ring lá

    Đã nghe rét mướt luồn trong gió"

    Làn gió của Xuân Diệu không hắt hui thổi mà run rẩy vì thu đến. Rét mướt như một sinh thể ẩn trong gió. Cũng là cảnh cây cối, nhưng trong cảm quan của Xuân Diệu, lá cây cũng run lên vì lạnh.

    Hình minh hoạ
    Hình minh hoạ


loading...