Top 5 Bài văn cảm nhận về bài thơ "Đường về quê mẹ" hay nhất
Đường về quê mẹ là những dòng hoài niệm đầy tình cảm của người con về những kỷ niệm đáng nhớ khi cùng mẹ trở về quê ngoại. Để làm rõ nội dung của bài, dưới đây ... xem thêm...quý đọc giả theo dõi những bài văn cảm nhận về bài thơ "Đường về quê mẹ" của Đoàn Văn Cừ dưới đây:
-
Hoài Thanh đã viết: “Trong các nhà thơ đồng quê, không ai có ngòi bút dồi dào mà rực rỡ như Đoàn Văn Cừ". Câu nói đã như một lời khẳng định Đoàn Văn Cừ luôn hướng ngòi bút của mình tới quê hương, và “Đường về quê mẹ” là một trong số tác phẩm như thế.
Chỉ với sáu khổ thơ, tuy không dài nhưng cũng không ngắn nhưng cũng đã đủ thể hiện tình cảm yêu thương về quê hương, đặc biệt về mẹ của tác giả. Trong sáu khổ thơ, hai khổ thơ đầu của bài đã thể hiện rõ nỗi nhớ về quê hương và kỉ niệm về con đường về quê cùng mẹ.
U tôi ngày ấy mỗi mùa xuân,
Dặm liễu mây bay sắc trắng ngần,
Lại dẫn chúng tôi về nhận họ
Bên miền quê ngoại của hai thân.
Tôi nhớ đi qua những rặng đề,
Những dòng sông trắng lượn ven đê.
Cồn xanh, bãi tía kề liên tiếp,
Người xới cà, ngô rộn bốn bề.
“U tôi”, một tiếng gọi thân thương cũng như một lời khẳng định. Vào mỗi mùa xuân, u sẽ đưa tôi về quê ngoại, nhận lại họ hàng và thăm mọi người ở quê. Có con đường nào đẹp bằng con đường về quê, nơi có người luôn yêu thương và chờ đợi ta. Con đường về quê luôn đẹp với những rặng liễu, rặng đề ven đường, trời trong xanh với những áng mây trắng bay. Đường về quê luôn có dòng sông trắng uốn lượn chào đón, luôn có những cồn xanh bãi tía cùng người nông dân bộn bề việc nông. Quang cảnh tả thực chứ không hề tô vẽ, phóng đại. Tuy nhiên, cái đẹp của quang cảnh cũng không thể nào sánh được với vẻ đẹp của u.
Thúng cắp bên hông, nón đội đầu,
Khuyên vàng, yếm thắm, áo the nâu
Trông u chẳng khác thời con gái
Mắt sáng, môi hồng, má đỏ au.
U chính là đại diện cho những nét đẹp của người con gái Việt Nam thời xưa. Dù đã lớn tuổi nhưng u vẫn không khác gì thời con gái với thúng cắp bên hông, đầu đội nón lá, đeo khuyên vàng, mặc yếm thắm, áo the nâu. Tuổi tác cũng không che được những nét hồng hào ở u. Mắt sáng, môi hồng, má đỏ au, tất cả đã làm bừng sáng cả bài thơ. Đối với tác giả, với cương vị là người con và dưới con mắt đa tình của nhà thơ, u luôn đẹp, luôn trẻ, luôn hiện hữu bên cạnh mình, để chỉ cần nhấc bút là có thể vẽ lên mẹ trên những vần thơ.
Chiều mát, đường xa nắng nhạt vàng,
Đoàn người về ấp gánh khoai lang,
Trời xanh cò trắng bay từng lớp,
Xóm chợ lều phơi xác lá bàng.
Tuy nhiên, sự thật vẫn luôn là sự thật. Ở khổ thơ bốn, tác giả đã mượn cảnh đông vui của làng quê để che giấu đi nỗi buồn, nỗi cô đơn trong lòng mình. Dù con đường về quê vẫn vậy, dù cảnh sắc thiên nhiên vẫn thế, nhưng mùa xuân này, tác giả lại về quê một mình. Thời gian cứ trôi, con người vẫn luôn miệt mài trong cuộc sống của họ, những hình ảnh bình dị về quê hương như những buổi chiều mát, con đường đón nhận những tia nắng vàng cùng đoàn người gánh khoai lang ra về. Tất cả vẫn còn hiện hữu, chỉ có người cùng mình về quê mỗi mùa xuân là không còn. Mùa xuân đến cũng là lúc lá bàng lìa khỏi cây. “Xác lá bàng” ở đây chỉ là cái lá rụng rơi trên mặt đất còn hồn lá bàng đã đi theo sự tan biên của mùa đông. Qua hình đó, tác giả đã thể hiện sự biết ơn và nỗi nhớ về mẹ.
Tà áo nâu in giữa cánh đồng,
Gió chiều cuốn bụi bốc sau lưng.
Bóng u hay bóng người thôn nữ
Cúi nón mang đi cặp má hồng.
Tới đường làng gặp những người quen.
Ai cũng khen u nết thảo hiền,
Dẫu phải theo chồng thân phận gái
Đường về quê mẹ vẫn không quên.
Hai khổ thơ cuối đã cho ta thấy những hoài niệm của tác giả về u. Không chỉ mang nét đẹp ngọt ngào, dịu dàng mà còn mang nét đẹp lao động cần mẫn, chăm chỉ. Tà áo nâu cùng chiếc nón lá, u “bán mặt cho đất, bán lưng cho trời”. Dưới gió chiều bụi mịt mù, bóng lưng chăm chỉ làm tác giả phân vân không biết là của mẹ hay của thiếu nữ nào. Còn gì vui hay tự hào khi về quê, nghe được những lời khen ngợi về gia đình. Cũng chính vì nết na, thảo hiền, lại chăm chỉ, biết lẽ đúng, u luôn được người làng khen ngời hết lời. U không chỉ là đại diện cho nét đẹp thời xưa của con gái Việt Nam mà còn là biểu tượng đẹp nhất trong lòng con.
Với ngôn từ giản dị, với những nét bút tả thực, hình ảnh làng quê cùng người mẹ đã hiện lên thật đẹp và ý nghĩa. Có thể nói, với mỗi nhà thơ, nhà văn, việc viết lên trang giấy những dòng chữ cùng chính là cách mà họ lưu giữ lại những kỉ niệm, những điều mà họ muốn giữ lại đến muôn đời, và mẹ cùng đường về quê mẹ chính là thứ mà Đoàn Văn Cừ muốn lưu giữ cho bản thân mình.
-
Đường về quê mẹ là những dòng hoài niệm đầy tình cảm của người con về những kỷ niệm đáng nhớ khi cùng mẹ trở về quê ngoại.
Trong những kỷ niệm tuyệt vời ấy, mỗi lần đến mùa xuân, mẹ lại dẫn đàn con về quê của mẹ. Mỗi bước chân theo con mẹ, thiên nhiên và con người quê ngoại dần dần hiện ra trước mắt. Khung cảnh thiên nhiên mùa xuân thật tuyệt vời với những rặng đề, dòng sông trắng, bãi tía và cồn xanh. Cảnh vật sống động, tràn đầy sức sống, như một bức tranh thôn quê với sắc màu và đường nét hài hòa. Cùng với đó, cảnh người dân quê ngoại đang bận rộn trong những hoạt động lao động quen thuộc: người xới cà, ngô thành đồng.
Khung cảnh bình yên và ấm áp này thực sự tuyệt vời! Những khoảnh khắc này khiến người con một lần nữa nhận thức được rằng quê ngoại không chỉ là một nơi đầy những kỷ niệm êm đềm và lãng mạn, mà còn là một thế giới đa dạng và tràn đầy sự sống. Người mẹ là nhân vật trung tâm của bài thơ. Dấu ấn của mẹ trong trái tim con là một người phụ nữ xinh đẹp và hiền lành. Hình ảnh của mẹ với khuyên vàng, yếm thắm, áo thêu nâu, đôi mắt sáng, đôi môi hồng và đôi má đỏ vẫn còn sâu đậm trong trí tưởng tượng con. Mẹ xinh đẹp và đằm thắm đến mức khiến con không khỏi ngạc nhiên: Trông mẹ chẳng khác gì thiếu nữ. Nhờ vào những lời khen của những người dân địa phương, hình ảnh của mẹ hiện lên với nét “thảo hiền” dễ thương.
Mặc dù lấy chồng xa xứ, nhưng mẹ vẫn không bao giờ quên con đường về quê ngoại. Bài thơ diễn tả được niềm vui, sự háo hức của người con mỗi khi cùng mẹ trở về quê ngoại. Đồng thời, nó cũng thể hiện tình yêu thương và niềm tự hào của con về vẻ đẹp của mẹ, tính tình và nguồn gốc quê hương. Mỗi lần trở về quê ngoại, con như được đắm chìm trong không gian thân thuộc và tình yêu thương của những người dân nông thôn. Quê ngoại không chỉ là nơi con có thể trở về với không khí trong lành, mà còn là nơi con có thể sống trong một cuộc sống giản dị, chất phác và yên bình.
Mỗi khi bước chân vào đất quê, con như được trở về nguồn cội của mình, những kỷ niệm đẹp và những giá trị truyền thống của gia đình. Đó là lý do tại sao mỗi khi trở về quê, con luôn tràn đầy hạnh phúc và biết ơn với những người mẹ yêu thương. Bên cạnh đó, quê ngoại còn là nơi con được học hỏi và trân trọng những giá trị thật trong cuộc sống. Từ việc chăm sóc cây trồng, trồng rau đến việc tham gia các hoạt động nông nghiệp truyền thống, con nhận ra tầm quan trọng của sự đoàn kết, sự chăm chỉ và sự cống hiến.
Quê ngoại là nơi con thấy được những tấm gương sống đáng ngưỡng mộ, những người dân chất phác và đam mê công việc. Mỗi lần quay trở lại quê ngoại, con như được đắm mình trong những khoảnh khắc truyền thống, những lễ hội đậm chất dân tộc và những buổi sum họp ấm cúng. Đó là lúc con cảm nhận được sự đoàn kết và tình yêu thương rộng lớn từ cộng đồng. Quê ngoại không chỉ là nơi con tìm thấy sự bình yên và an lành, mà còn là nơi con khám phá và trân trọng những giá trị văn hóa độc đáo của dân tộc. Mỗi chuyến trở về quê ngoại là một cuộc phiêu lưu tuyệt vời, một hành trình đầy ý nghĩa và những kỷ niệm đáng nhớ.
Đường về quê mẹ không chỉ là con đường vật lý con đi qua, mà còn là con đường tâm hồn con trở về để tìm lại những giá trị cao quý và lòng biết ơn sâu sắc. Quê ngoại là nơi con gắn kết với quá khứ, sống trong hiện tại và mơ ước về tương lai.
-
Đường về quê mẹ của Đoàn Văn Cừ viết theo thể thât ngôn tứ tuyệt, 6 khổ, 24 câu, vẽ lại hình ảnh người phụ nữ nông thôn VN khi xưa, muốn cho con cái không quên cội nguồn, người mẹ trẻ dắt các con về thăm quê ngoại.
Bài thơ chỉ miêu tả khung cảnh đồng quê trên đường đi mà không bình luận. Tác giả ’’chộp’’ lấy khoảng thời gian, không gian, khung cảnh cánh đồng, làng quê… đẩy cảm xúc nghệ thuật lên cao rồi ghi lại. Chỉ tới 4 câu kết, nhàq thơ mới gían tiếp bày tỏ tâm tư thông qua nhận xét của dân làng: Dẫn là thân phận ’’nữ nhi ngoại tộc’’, người phụ nữ thảo hiền vẫn không quên quê cha đất tổ…
Theo nguyên tắc của thể thơ Đường, tác giả vào đề bằng hồi ức của đứa con vẫn giữ lại trong trí tưởng hình ảnh lúc bé theo mẹ về thăm quê ngoại:
U tôi ngày ấy mỗi mùa xuân
Dặm liễu mây bay sắc trắng ngần
Lại dẫn chúng tôi về nhận họ
Bên miền quê ngoại của hai thân.
U - là cách gọi mẹ của dân mấy huyện xung quanh thành Nam. (gọi cha, bố là Thầy). Nguyễn Bính người huyện Vụ Bản cũng xưng hô với mẹ như thế. Ông đưa vào bài thơ Chân quê: Thầy U mình với chúng mình chân quê (1). Thế nhưng dân ở hai huyện Giao Thủy, Hải Hậu – cũng là đất Nam Định - thì vẫn xưng hô: Bố - Mẹ.
Hai thân (hay song thân) - là cách gọi bố mẹ của những người có học thể hiện sự kính trọng, văn hoa. Nhà thơ dùng cụm từ:: ’’dặm liễu – mây bay – (sắc) trắng ngần’’ - vừa như tả cảnh trí (mây trắng bay…) nhưng cũng thể hiện cách điệu sắc đẹp ngoại hình của mẹ: Tinh tế, thướt tha, uyển chuyển...
Tôi nhớ đi qua những rặng (cây) Đề
Những giòng sông trắng lượn ven đê
Cồn xanh, bãi tía kề liên tiếp
Người xới cà, ngô - rộn bốn bề.
Quê cụ Đoàn làng Đô Quan, xã Nam Lợi, huyện Nam Trực - nằm cách chân đê sông Hồng không xa. Tại sao lại có Những giòng sông trắng lượn ven đê ?
Dọc con đê, phía ngoài là sông Hồng - sông lớn nhất ở miền Bắc, ven đê phía trong lại có những sông con lượn quanh. Nguyên do: Để chống lại những cơn lũ gây vỡ đê khi nước sộng dâng cao mỗi mùa lũ tới, dân cư hai bên bờ tả ngạn (Nam Định) - hữu ngạn (Thái Bình), đào đất trên cánh đồng, đem bồi đắp đê ngăn nước. Đê sông Hồng là con đê to nhất miền Bắc, bởi vậy đất đào nhiều, tạo thành những con sông chạy dọc theo đê.
Khoảng cách giữa đê chính và sông đào tuy không xa nhưng khoảnh đất này khá lớn lại khó có thể trồng lúa vì khi xưa không có bơm điện nên ở đây úng lụt.
Không để lãng phí đất, dân quê phải tôn lên cao (vượt), tạo thành những cồn đất. Còn bãi - thường nằm dưới chân đê cạnh mép nước sông. Trên bãi, dân cư trồng hoa mằu như ngô, khoai, rau cải, cà pháo, cà tím, đâu... các cây trồng đã tạo cảnh sắc ’’Cồn xanh (mầu lá rau cải…) bãi tía (tím nhạt) - cà tím, khoai tía…) kề liên tiếp’’...
Dọc bờ sông đào được trồng những hàng cây đề, tạo thành rặng cây. Cây đề cùng họ rễ buông với cây đa. Trên bờ, đề buông rễ xuống mặt nước... đây đó từng đoạn vài trăm mét lại có một lều cất vó hoặc những con thuyền nan có những cụ gìa buôn cần câu cá, làm phong cảnh sông nước, đồng quê thật bình yên, tĩnh lặng, nên thơ...
Thúng cắp bên hông, nón đội đầu
Khuyên vàng, yếm thắm, áo the nâu
Trông U chẳng khác thời con gái
Mắt sáng môi hồng má đỏ au.
Người phụ nữ thời xưa thường dùng (cái) thúng - đan bằng tre, vành cạp mây - đựng đồ vật để buôn bán hay di chuyển, mang đi. Thi sĩ Nguyễn Vĩ đã viết trong Gửi Trương Tửu: Còn tôi bưng thúng theo đàn bà/ ra chợ bán văn ngày tháng qua (3). Lần về này, mẹ mang thúng đựng qùa tặng thầy, u và người thân. Vì trọng lượng thúng nhẹ - dăm ba cân, đi gần - mẹ cắp bên hông chứ không đội.
Người mẹ mà nhà thơ miêu tả - dắt theo mấy đứa con (...dẫn chúng tôi...), chắc thời con gái mẹ đẹp lắm. Bây giờ dù đã có đàn con, nhưng nhìn trang phục: Yếm thắm, khuyên vàng, áo the nâu và ’’má (vẫn) đỏ ău’’, cậu bé có cảm nhận mẹ mình vẫn như thời con gái! Dưới cái nhìn của câu, người mẹ thân yêu thật đẹp. Đó cũng là hình ảnh của những người mẹ trẻ đương thời, vì khi nhà thơ viết Đường về quê mẹ đã ở tuổi 29 (1913 - 1942). Kí ức về mẹ của tác gỉa chỉ còn rất ít, vì khi theo mẹ về quê ngoại, nhà thơ mới 5 tuổi...
Tà áo nâu in giữa cánh đồng
Gío chiều cuốn bốc bụi sau lưng
Bóng U như bóng người thôn nữ
Cúi nón mang đi cặp má hồng
Về làng, mẹ con phải vượt qua cánh đồng. Tấm áo the nâu của mẹ mỏng tang. Gió chiều thổi mạnh, cuốn bốc bụi sau lưng. Mẹ khép mình, như tránh những làn bụi hắt vào thân thể. Cúi đầu, kéo nón che cả khuôn mặt để tránh bụi bay vào mắt. ’’Cúi nón’’ - khiến che cả má hồng của mẹ. Trông mẹ như e ấp… cậu bé cảm thấy mẹ mình như bao cô gái quê ở tuồi cập kê - khép nép, dịu dàng…
Chiều mát, đường xa nắng nhạt vàng
Đoàn người về ấp gánh khoai lang
Trời xanh , cò trắng bay từng lớp
Xóm chợ lều phơi xác lá bàng.
Làng Đô Quan, phía nam là vùng đất trũng chỉ trồng được lúa. Phía bắc giáp với các làng Thôn Nội, Liên Tỉnh… là vùng đất cao, pha cát, thích hợp trồng hoa mầu nên dân cư không trồng lúa...
Khoai lang của vùng đất pha cát - rât đặc biệt: Củ to bằng bắp chân người lớn, nặng từ 300 đến 1 kilô. Có nhiều củ nặng đến vài ba kí lô. Khi luộc, bột khoai bở, nuốt phát nghẹn. Có loại khoai nghệ, luộc chín, bóc vỏ, ruột khoai vàng như nghệ, đường tứa ra ngọt như chấm mật nên dân Nam Định gọi là khoai nghê – khoai mật.
Thời gian mẹ về quê vào buổi chiều nên gặp nhiều nông dân bới khoai gánh về thôn ấp. Chiều quê hương thật đẹp: Bầu trời xanh cao thăm thẳm, từng đàn cò trắng bay về tổ, in trên nền xanh làm nổi hẳn những cánh cò trắng phau. Qua chiếc chợ ở đầu làng (người mua kẻ bán đã về hết), nhựng chiếc lêu qúan xiêu vẹo ngập xác lá (cây) bàng, thứ cây thường được trồng ở những nơi dân cư tụ tập (chợ, trường học, đình làng…) để lấy bóng râm, che cho người đứng dưới mát mẻ, giảm oi nồng trong mùa hè nóng nực.
Qua khỏi chợ, mẹ con tiến vào làng:
Tới đầu làng gặp những người quen
Ai cũng khen U nết thảo hiền
Dẫu phải theo chồng thân phận gái
Đường về quê mẹ vẫn không quên.
Người mẹ trẻ gặp bà con chòm xóm. Ai cũng vui mừng hồ hởi vì biết nàng dù đã đi lấy chồng nơi xa nhưng vấn nhớ quê hương, tổ tiên, ông bà, cha mẹ - về thăm. Dân làng coi Mẹ là người con gái thảo hiền. Thơi xa xưa, dân ta đã tổng kết: ’’Con gái là con ngưòi ta’’. Con gái gả chồng coi như ’’bát nước đổ đi’’. Trên thực tế: Người con gái lấy chồng phải đổi họ, phải gánh vác ’’giang sơn’’ nhà chồng. Gánh nặng cuộc đời đè nặng trên vai gầy vì nghèo…đã bắt người phụ nữ không còn khả năng giúp đỡ bố mẹ đẻ.
Bố mẹ đẻ cũng cưới con dâu cho em (anh) trai cô gái đã đi ở riêng. Người con dâu kia cũng lặp lại theo chu kì mà con gái ông bà đã đi…. Đây chính là quy luật cuộc đời, là cái ’’nợ đồng lần’’ mà tất cả mọi gia đình trong cộng đồng tộc Việt đều chia sẻ.
Theo nhiều tư liệu: Đoàn Văn Cừ sinh năm 1913, mồ côi mẹ từ lúc 5 tuổi. Cũng giống Nguyễn Bính, dù mất mẹ lúc còn nằm trong nôi, cũng viết về mẹ rất hay (bài Lòng Mẹ). Người Mẹ trong thi ca của cả hai nhà thơ đất Nam Định đều được người đọc Việt Nam tán thưởng đến xúc động.
Tuy nhiên, tôi góp ý về nhận định của Trần Ngọc Thụ Trong một bài viết, có đoạn: ’’… Nói nhiều đến từ "thật" là vì gần đây một nhà thơ khi bình thơ Đoàn Văn Cừ có nói: Đường về quê mẹ là bài thơ nhiều màu sắc, đủ 12 màu như bài Chợ tết, và Đoàn Văn Cừ lấy hình ảnh của những thiếu nữ nông thôn đương thời để viết về mẹ mình ngày xưa, tạo nên hình ảnh người phụ nữ nông thôn tiêu biểu thời xưa.Nói như thế thật không thấu lý đạt tình’’(Mẹ trong thơ Nguyễn Bính và Mẹ trong thơ Đoàn Văn Cừ - Trần Ngọc Thụ (*))
Tôi hoàn toàn đồng ý với ý kiến nhận xét của nhà thơ mà tác giả Trần Ngọc Thụ không tán thành. Cụ Đoàn Văn Cừ viết Đường về quê mẹ trên nền sự thật, cảnh thật mà tác gỉa nhìn thấy trên đường về quê ngoại (làng Cổ Gỉa). Tuy cảnh phải nói là rất ’’THẬT’’, nhưng đã được điển hình hóa của nhiều cảnh thật xung quanh, chứ không phải cái thật cụ thể trên đường từ Đô Quan (quê nội) đến Cổ Gỉa (quê ngoại). Đoạn đường này nằm ở phía tây , không có ’’Những giòng sông trắng lượn ven đê’’, càng không có ’’cồn xanh bãi tía kề liên tiếp’’ - để nhà thơ dựng lên khung cảnh bài thơ Đường về quê mẹ
Bởi vì, khi tác gỉa mới 5 tuổi, cụ bà - mẹ nhà thơ - đã mất. Một đứa trẻ 5 tuổi không có nhận xét về mẹ… như các câu thơ của bài thơ. Sự thực, bài thơ được tái tạo vào năm 1942 - lúc Đoàn Văn Cừ 29 tuổi. Tác giả kết hợp từ quan sát ’’thì’’ hiện tại, với hồi ức của quá khứ mới viết ra Đường về quê mẹ.
Bài thơ là sự khái quát được kết tinh hoàn toàn do trí sáng tạo. Nói cụ thể hơn: Cái ’’thật’’ trong thơ chỉ là ’’Bột’’ đề ngòi bút tài năng gột nên ’’Hồ’’ – Đường về quê Mẹ!
Cũng giống như Nguyễn Bính viết bài Lòng Mẹ. Hình ảnh người mẹ trong bài thơ hoàn toàn do tác gỉa tưởng tượng ra trên nền của các hình ảnh diễn ra xung quanh, do người thân, do dân cư trong vùng kể lại hoặc do chính Nguyễn Bính chứng kiến sau này. Bà mẹ trong bài thơ Lòng mẹ có cô con gái đi lấy chồng… trong khi Nguyễn Bính mất mẹ từ khi hãy còn ẵm ngửa.
Có rất nhiều thí dụ về sự sáng tạo của nhà Thơ. Nhân vật - Thật - Gỉa gắn quyền - tạo ra nhân vật sống động, trường hợp này là ’’GIẢ’’, nhưng trường hợp khác lại hoàn toàn ’’THẬT’’… Dù giả đấy, nhưng là hình ảnh của nhiều người được tác giả chắt lọc xây dựng lên. Người nữ du kích trong Núi Đôi của Vũ Cao, được sáng tạo từ những anh hùng liệt sĩ khác… Ngược lại, nhân vật ’’nàng’’ trong Mầu Tím Hoa Sim của Hữu Loan - lại là bản sao thật của người vợ trẻ của nhà thơ…
Một chi tiết khác: Tôi là người làng Xối Tây (Xã Nam Long), làng tôi và làng Đô Quan của cụ Đoàn (Xã Nam Lợi) - chỉ cách nhau 1 cánh đồng (4). Quê ngoại của cụ là làng Cổ Gỉa (xã Nam Tiến) – nằm ở phía tậy – phía trong 2 xã kia, gần đưòng tỉnh lộ số 55. Cổ Gỉa nằm cách xa đê sông Hồng nên không có ’’những giòng sông… lượn ven đê’’, không có ’’cồn xanh, bãi tía’’. Nhưng từ làng Đô Quan đi ra phía đê sông Hồng, nghĩa là ngược hướng với Cổ Giả (quê ngoại) , thì cảnh trí này toàn là… thật – như câu thơ đã viết.
Cũng như vậy - Bài Chợ Tết nổi tiếng cũng của Đoàn Văn Cừ - không phải cảnh chợ tết ở quê hương nhà tho. Vì huyện Nam Trực không có núi đồi đề miêu tả ’’Trên con đường viền trắng mép đồi xanh’’. Điều này cũng đã đưọc cụ Đoàn nói rõ trong một bài phỏng vấn của phóng viên Văn Nghệ - ND.(khi đó cụ Đoàn đã yếu lắm, phải trò truyện bằng bút đàm):
’’…Hỏi: Ông đã lấy những hình ảnh phiên chợ tết quê mình để viết bài thơ Chợ Tết phải không?
Trả lời: Phải vậy cũng không phải vậy… Từ năm tám tuổi tôi đã thích theo mẹ đi chợ. Có những chợ ở cạnh sông, lại có những chợ ở bên núi. Chợ ở giữa trời đất. Những cái chợ đấy có cả ở Bắc Giang, Bắc Ninh, Việt Trì... chứ đâu chỉ có ở quê mình. Cái chợ này là hồn vía của người Việt Minh ở miền bắc. Mấy năm trước bên làng Lao có một đoàn người sang gặp tôi bảo rằng đó chính là phiên chợ của làng họ. Họ xin phép tôi cho khắc đá bài thơ…’’
Nói tóm lại: Các bài thơ hay nhất của Đoàn Văn Cừ đều là thơ miêu tả khung cảnh đồng quê Việt Nam. Trước hết được tác gỉa sáng tạo trên nền của cái ’’Thật’’. Có điều vốn sống của nhà thơ qúa dồi dào, tài năng, công với sự quan sát kỹ càng, tỷ mỉ, sâu sắc, nắm bắt được cái thần - bản chất của người và vật, xử dụng ngôn từ tinh tế, dân dã… đã tạo ra tác phẩm thành công mĩ mãn.
Hầu như toàn bộ sáng tác thơ của Cụ Đoàn trong 2 tập thơ Thôn Ca (I, II) - đều được thể hiện theo phong cách tả cảnh. Dù là tả cảnh ’’sao chép… chụp ảnh’’, nhưng… người đọc nhìn cảnh – sinh tình, cảm thụ đưọc hết vẻ đẹp của thôn quê Việt Nam. Vả lại, dưới ngoài bút tài hoa, hiểu biết đồng quê, ’’Người thư kí thời đại’’ Đoàn Văn Cừ đã mang đến cho người đọc cảm xúc rạt rào, nhận thức sâu sắc, đẩy khoái cảm thẩm mĩ lên cao…
Điều quan trọng hơn: Từ chủ đề rõ ràng, cấu trúc chặt chẽ, câu, ý thơ trong sáng khiến hiệu qủa truyền cảm của tác phẩm thêm mãnh liệt. Hai câu kết của Đường Về Quê Mẹ có thể đã vượt ra ngoài dụng ý của tác gỉa. Người đọc phải suy tư, đi đến đồng cảm… Tận trong cõi sâu tâm hồn nhận ra - bài thơ đã chuyển ý, vượt ra khỏi khuôn mẫu, bay bổng, kích thích trí tưởng: Đó là lời nhắn nhủ, là thông điệp của tác gỉa chuyển đến mọi người đọc:
Dù đã đi theo người…
Dù đã về làm dâu nhà người…
- Đừng bao giờ quên Đường về quê mẹ! Trong trí tưởng người đọc: Mẹ ở đây đã trở thành Mẹ tổ quốc - Mẹ Việt Nam mến yêu!
-
Bài thơ “Đường về quê mẹ” là một bài thơ khá tiêu biểu của nhà thơ Đoàn Văn Cừ, in trong tập “Thôn ca” năm 1942. Năm 1941, khi giới thiệu thơ Đoàn Văn Cừ trong “Thi nhân Việt Nam”, Hoài Thanh đã viết: “Trong các nhà thơ đồng quê, không ai có ngòi bút dồi dào mà rực rỡ như Đoàn Văn Cừ “. Hoài Thanh lại cũng rất đúng khi viết: “Nhưng nghĩ đến Đoàn Văn Cừ là tôi lại nghĩ đến tết”. Trong dịp tết Nguyên Đán này, chúng ta cùng theo Đoàn Văn Cừ lên ” Đường về quê mẹ”, để tìm ra con đường về quê thơ của tác giả hơn năm mươi năm trước hồn hậu và thương mến biết chừng nào…
Bài thơ có sáu khổ, viết theo bút pháp tả thực, chân mộc và giản dị theo kiểu tranh thuỷ mạc, không chuốt lục tô hồng, không siêu hình siêu thực, không uốn éo vặn vẹo mà lại rất thơ. Ấy là bởi Đoàn Văn Cừ nói bằng tình thực:
“U tôi ngày ấy mỗi mùa xuân
Dặm liễu mây bay sắc trắng ngần
Lại dẫn chúng tôi về nhận họ
Bên miền quê ngoại của hai thân”.
Có thể, một vài bạn làm thơ trẻ bây giờ, đọc tới những dòng trên của Đoàn Văn Cừ hơn nửa thế kỷ trước, chép miệng, tặc lưỡi chê: thơ thẩn gì mà quê mùa thế !
Vâng Đoàn Văn Cừ quê mùa thật, cái quê mùa của thi ca, của hạt lúa củ khoai, của nông thôn nước Việt. Thơ Đoàn Văn Cừ thật như hình ảnh “U tôi ngày ấy”, như “Dặm liễu mây bay” và chân thành, chân chất như “Miền quê ngoại”…chỉ nhìn được, cảm được, nhưng không phân tích được…Khổ thơ bốn câu ba vần, nhà thơ xử dụng vần ân: xuân, gần, thân tạo cho người đọc cảm giác rân rân, gần gần, phân thân, bần thần…như một tiếng chuông ngân dài mãi nỗi phân vân “U tôi” ngày ấy. Thơ họ Đoàn là bức tranh tĩnh vật, nhưng là tĩnh vật của tĩnh vật, tuy có bóng người đang hoạt động đấy nhưng vì nó xưa quá, xa quá nên lặng lẽ quá, yên bình quá tưởng như không còn thấy thơ đâu cả, chỉ toàn vật sinh tâm, tâm sinh cảnh, cảnh sinh tình, tình sinh…thơ:
“Tôi nhớ đi qua những rặng đề
Những dòng sông trắng lượn ven đê
Cồn xanh, bãi tiá kề liên tiếp
Người xới cà ngô rộn bốn bề”.
Nếu khổ thơ thứ nhất, nhà thơ tả cảm giác về không gian và thời gian, khổ thơ thứ hai tả khái quát toàn cảnh quê hương, nơi nhà thơ thời bé theo mẹ về quê ngoại ngày đầu xuân, thì khổ thứ ba là khổ thơ thành công nhất của bài thơ vì nó tả rất hay người mẹ Việt Nam xưa:
“Thúng cắp bên hông, nón đội đầu
Khuyên vàng, yếm thắm, áo the nâu
Trông u chẳng khác thời con gái
Mắt sáng, môi hồng, má đỏ au”.
Bài thơ từ tĩnh chợt chuyển sang động, hoạt và bừng lên như giữa vầng lá xanh chợt đột ngột hiện một bông hồng chớm nở. Người mẹ hiện lên đẹp như buổi sáng mùa xuân, gọn gàng và duyên dáng từ diện mạo, thần sắc đến trang phục như nét thanh tân dịu dàng của một cô Tấm, của một Giáng Kiều bước ra từ bức tranh Tố Nữ làng quê. Khổ thơ này tả người nhưng thực ra để tả tình, tả tình nhưng là cốt để nâng cảnh nông thôn Việt Nam lên cho quyến rũ và đa tình, cho thân thương và hấp dẫn.
Cái duyên ngầm của người mẹ xưa cũng chính là cái duyên ngầm của thơ vậy. Khi mắt người đọc đã đọc sang tiếp khổ thơ khác, nhưng lòng thì đã ở lại, nhập vào hồn vía của câu thơ “Mắt sáng, môi hồng, má đỏ au” từ lúc nào rồi. Khổ thơ này về ngoại hình thì động, nhưng hồn của nó lại ở thể tĩnh. Người mẹ xưa đã bước vào thơ Đoàn Văn Cừ, để tuổi đôi mươi duyên dáng lại mãi với bài thơ, không bao giờ già đi, mất đi như người mẹ thật ngoài đời. Thời gian ngừng lại không qua mùa hạ mùa thu, mà mãi mãi là mùa xuân với bà mẹ tuổi xuân xanh trong thơ họ Đoàn muôn thuở. Nhà thơ dùng bút pháp tĩnh lặng của thi ca phương Đông để làm xao động lòng người đọc: lấy tĩnh mà khơi động, lại biết lấy động mà đạt tĩnh là nghệ thuật của tranh Tống vậy.
Khổ thơ thứ tư tác giả mượn cảnh giãi bày tâm trạng, mượn cái đông vui để diễn tả nỗi cô đơn và cái buồn của trời đất:
“Chiều mát đường xa nắng nhạt vàng
Đoàn người về ấp gánh khoai lang
Trời xanh cò trắng bay từng tốp
Xóm chợ lều phơi xác lá bàng”.
Ba câu thơ đầu của khổ thơ này phải nói là vui như tết, mắt ta đọc đến nhưng tình chưa đến kịp. Nhưng đến câu thơ thứ tư, mắt ta chưa đọc hết mà tình đã đến trước rồi vậy:” Xóm chợ lều phơi xác lá bàng”. Hoá ra mùa xuân vừa đến, hồn của mùa đông vừa lìa khỏi xác lá bàng. Không phải cái lá bàng mà xác lá bàng, chỉ còn xác, vì cái hồn lá bàng đã về hư vô cùng với mùa đông vừa biến mất. Xác lá bàng rải rác trên các lều chợ kia đỏ như vệt máu đau thương của mất mát, chính là nỗi buồn xưa còn vương lại trong bài thơ. Nhà thơ ngầm cám ơn cái lá bàng rụng xuống cho mùa xuân về, cũng chính là nỗi lòng biết ơn quá khứ, biết ơn người mẹ.
Chính quy luật sinh diệt của tạo hoá trong số phận xác lá bàng kia khiến ta cùng với nhà thơ, cố gắng lần cuối, níu lấy ngày xưa, níu lấy thì con gái của mẹ và níu lấy tuổi thơ thần tiên của mình, nhưng chừng như nón quai thao xưa đã mang đi tất cả:
”Bóng u hay bóng người thôn nữ
Cuối nón mang đi cặp má hồng”.
Chiếc nón thời gian đã che mất cặp má hồng của quá khứ, chỉ còn là hoài niệm, nỗi buồn cũng cần phải biết lắng xuống như phù sa, để niềm an ủi nổi lên, để làng xóm bình phẩm về đức hạnh của mẹ, cũng là đức hạnh của nông thôn Việt Nam và là đức hạnh của thơ Đoàn Văn Cừ:
“Tới đường làng gặp những người quen
Ai cũng khen u nét thảo hiền
Dẫu phải theo chồng thân phận gái
Đường về quê mẹ vẫn không quên”.
Có thể bạn trẻ làm thơ bây giờ cho là người bình bài thơ này tán hưu tán vượn, chứ thơ Đoàn tiên sinh thật như đếm, nôm na như mô - đen nâu sồng giờ không ai mặc nữa. Có thể thơ họ Đoàn còn chút nôm na, nhưng là cái nôm na của rơm rạ, của khói bếp làm nên vẻ răng đen bồ hóng, của hồn quê đất nước nhà tranh vách đất, của cái nôm na níu kéo tình người. Đọc bài thơ này của ông, không hiểu sao tôi cứ có cảm giác cái đẹp hồn hậu, cái đẹp chân nhiên nhất bao giờ cũng biết khoác lên mình chút vẻ sương khói của nỗi buồn vạn cổ. Mùa xuân, chúng ta hãy tìm về vơi nông thôn, nơi không chỉ là quê hương của dân tộc Việt, mà còn là quê hương của thi ca, quê hương của hồn người, tình người muôn thuở , để cám ơn nhà thơ Đoàn Văn Cừ, còn giữ lại cho ta cái bâng khuâng thương mến , cái mỹ cảm của một thời đại đã đi qua.,.
-
Trong bài thơ “Đường về quê mẹ” của Đoàn Văn Cừ, những dòng chữ dường như mang đến một hành trình trở về quê hương đầy cảm xúc và ý nghĩa. Từng câu thơ lồng ghép những hình ảnh màu sắc và sống động, khiến cho người đọc không chỉ trầm trồ trước vẻ đẹp của thiên nhiên mà còn cảm nhận được tình yêu thương chân thành của người con đối với mẹ.
Trong kí ức đáng nhớ ấy, mỗi khi mùa xuân trở về, mẹ lại dẫn đàn con trở về quê ngoại. Bước theo những dấu chân của mẹ, con được chìm đắm trong vẻ đẹp hùng vĩ của thiên nhiên và sự chân thành của con người quê hương. Cảnh sắc mùa xuân với những đồng hoa đua nở, con sông trong xanh, những bãi cát trắng, và những cánh đồng xanh tươi… tất cả tạo nên một bức tranh thôn quê tươi đẹp và hài hòa. Những hình ảnh này không chỉ đẹp mắt mà còn mang đến cho người đọc cảm giác bình yên và ấm áp. Trong mắt người con, quê ngoại là một vùng đất đầy kỷ niệm êm đềm và thơ mộng. Nhân vật trung tâm của bài thơ là người mẹ, một người phụ nữ xinh đẹp và tốt bụng. Với những chiếc khuyên vàng, chiếc áo yếm thắm và áo dài màu nâu, mẹ là hình ảnh đẹp và quyến rũ trong tâm trí con. Mẹ có đôi mắt sáng ngời, đôi môi hồng, và má đỏ… những nét đẹp này luôn ấn tượng sâu sắc trong tâm trí con. Con không khỏi ngạc nhiên và mê đắm: “Trông mẹ giống như một cô gái”. Mẹ được người dân quê khen ngợi với tính cách hiền hòa và dễ mến. Dù đã lấy chồng và sống xa quê hương, mẹ vẫn giữ trong lòng mình tình yêu và sự ghi nhớ về quê ngoại.
Bài thơ “Đường về quê mẹ” không chỉ đơn thuần là một tấm gương tình mẫu tử, mà còn thể hiện tình yêu thương và niềm tự hào của người con với vẻ đẹp và nết na của mẹ. Mỗi lần cùng mẹ trở về quê ngoại, người con luôn tràn đầy niềm vui và háo hức. Bài thơ đã chạm đến lòng người, khắc sâu hình ảnh một người mẹ yêu thương và những kỷ niệm đáng nhớ trong tâm trí người con.