Top 12 Loài động vật có khả năng thay đổi màu sắc ấn tượng nhất

Sự thay đổi màu da một cách nhanh chóng chính là một trong những điểm độc đáo nhất của thế giới động vật. Cách mà các con vật trở thành một phần với môi trường ... xem thêm...

  1. Khi nói đến sự ngụy trang thì có lẽ không loài vật nào có thể vượt qua mặt loài tắc kè hoa. Sự thay đổi nhanh chóng của màu da chính là đặc biệt nổi bật nhất của loài bò sát trên. Một lẽ dĩ nhiên, tắc kè hoa hoàn toàn có thể pha trộn với môi trường xung quanh bằng cách ngụy trang màu sắc của chúng. Nhưng, việc thay đổi màu da của tắc kè hoa lại phần lớn bị chi phối bởi bởi sự thay đổi tâm trạng, nhiệt độ và cường độ của ánh sáng xung quanh. Một số loài tắc kè hoa có thể biến thành bất kỳ màu sắc nào.


    Tắc kè hoa có tế bào mang sắc tố đặc biệt dưới da. Sự thay đổi tâm trạng, nhiệt độ hay ánh sáng sẽ gửi một thông điệp từ não đến các tế bào này và kết quả là màu sắc của da chúng sẽ thay đổi theo. Sự thay đổi này sẽ xảy ra chỉ trong vòng 16 - 20 giây. Tắc kè hoa sử dụng kỹ thuật này để giao tiếp với loài tắc kè khác. Nó cũng cho phép chúng hoàn toàn hòa nhập với môi trường xung quanh.

    Điều thú vị về Tắc kè hoa:

    • Có 160 loài tắc kè hoa khác nhau. Một nửa loài tắc kè hoa trên thế giới sống ở đảo Madagascar.
    • Tắc kè hoa có thể di chuyển đôi mắt độc lập với nhau. Như vậy, chúng sẽ có được một cái nhìn 360 độ về môi trường xung quanh.
    • Chúng khác nhau về kích thước. Tắc kè hoa Parson là tắc kè hoa lớn nhất trong thế giới với chiều dài 68 cm. Brookesia Micra là tắc kè hoa nhỏ nhất được biết đó chỉ là 1,2 cm.
    • Lưỡi tắc kè hoa dài gấp 1,5 đến 2 lần chiều dài cơ thể.
    • Tắc kè hoa có thể nhìn thấy cả hai bên và ánh sáng cực tím.

    Chúng có khả năng thay đổi màu da bao gồm hồng, xanh dương, đỏ, da cam, xanh ngọc, vàng, và màu xanh lá cây. Màu sắc là một ngôn ngữ được sử dụng để bảo vệ lãnh thổ, thể hiện cảm xúc và giao tiếp với bạn tình tiềm năng. Nó cũng là một phương tiện điều tiết thân nhiệt. Cách tắc kè hoa thay đổi màu sắc thật thú vị: Các tế bào chứa nhiều sắc tố nằm dưới da và có thể "mở", "đóng" để phơi bày màu sắc. Chẳng hạn, khi tức giận, tắc kè hoa mở tế bào chứa sắc tố nâu - melanin, giúp biến nó thành màu thẫm. Khi nó thư giãn, tế bào chứa sắc tố vàng hoặc xanh kết hợp, làm cho da có màu xanh dịu. Khi bị kích thích tình dục, tắc kè hoa tạo ra rất nhiều màu sắc và hoa văn. Vào ban đêm, nhiều tắc kè hoa biến thành màu trắng.

    Tắc Kè Hoa
    Tắc Kè Hoa
    Tắc kè hoa
    Tắc kè hoa

  2. Linh dương Addax sống chủ уếu ở hoang mạc Sahara, nổi Ƅật với cặp sừng xoắn dài từ 55 - 80cm (con cái) và 70 - 85cm (với con đực) cùng những chỏm lông màu nâu trước trán, quɑnh mũi - tạo nên hình chữ “X” rất độc đáo. Đặc biệt màu sắc bộ lông của loài linh dương nàу thay đổi theo mùa. Vào mùa hè, lông củɑ chúng màu trắng hay cát vàng có tác dụng ρhản xạ lại ánh nắng Mặt trời. Trong khi đó, vào mùɑ đông, bộ lông ấy lại chuyển sang màu nâu xám, hơi trắng ở ρhần chân sau. Vì là động vật ăn cỏ nên thức ăn chính củɑ loài vật này là cỏ, lá của những loại câу lâu năm hay cây bụi nhỏ.


    Màu lông của linh dương sừng xoắn châu Phi thay đổi theo mùa. Vào mùa đông, bộ lông có màu nâu xám còn ống chân và phần thân sau có màu trắng, lông dài màu nâu mọc trên đầu, cổ và vai. Vào mùa hè, bộ lông trở lại gần như hoàn toàn màu trắng hoặc màu cát vàng. Đầu được đánh dấu bằng các mảng màu nâu hoặc đen có hình chữ 'X' trên mũi. Linh dương có râu thô và lỗ mũi đỏ nổi bật. Lông đen dài nhô ra giữa cặp sừng cong và xoắn ốc, kết thúc tại mảng lông bờm ngắn trên cổ.


    Là loài chủ yếu hoạt động về đêm, đặc biệt vào mùa hè. Trong ngày, linh dương đào sâu vào cát tại vị trí râm mát và nghỉ ngơi trên hố lõm đào được, hành động này bảo vệ linh dương tránh khỏi bão cát. Linh dương sừng xoắn châu Phi sống theo đàn có cả đực lẫn cái, và có từ 5 đến 20 cá thể. Chúng sẽ thường lưu lại một địa điểm và chỉ đi lang thang khắp nơi để tìm thức ăn. Linh dương sừng xoắn châu Phi có một cấu trúc xã hội bền chặt, dựa vào tuổi tác, đàn được dẫn dắt bởi con cái lớn tuổi nhất. Bầy đàn nhiều khả năng tìm được dọc theo rìa phía bắc của hệ thống mưa nhiệt đới suốt mùa hè và di chuyển lên phía bắc khi mùa đông đến. Chúng có thể theo dõi lượng mưa và sẽ hướng về những khu vực này, là nơi mà thảm thực vật phong phú hơn. Con đực chiếm lãnh thổ và bảo vệ con cái, trong khi con cái thiết lập nhóm thống trị riêng của chúng.


    Do chuyển động chậm, linh dương sừng xoắn châu Phi là mục tiêu dễ dàng cho động vật ăn thịt như sư tử, chó hoang châu Phi, báo gêpa và báo hoa. Linh miêu tai đen, linh cẩu và linh miêu đồng cỏ tấn công con non. Linh dương sừng xoắn châu Phi thường không hung hăng, mặc dù tính khí có thể thay đổi nếu bị kích động.

    Linh dương Addax
    Linh dương Addax
    Linh dương Addax
    Linh dương Addax
  3. Bọ que có thể biến đổi màu sắc tùy theo môi trường. Chẳng hạn nếu nó sống trên cành cây khô thì nó sẽ biến đổi thành màu nâu, hoặc nếu nó sống trên những cành lá màu xanh thì nó sẽ biến đổi màu sắc thành màu xanh. Một số “que củi” có thể thay đổi màu sắc, giống như tắc kè hoa, tùy thuộc vào màu sắc nơi chúng đang đứng. Những con bọ que cũng có thể mang màu sắc tươi sáng trên đôi cánh của chúng, nhưng cũng có thể giấu nó đi trong chốc lát.


    Khi một con chim hoặc thú ăn thịt khác tiếp cận, “que củi” sẽ nháy cánh mạnh mẽ, rồi giấu đi chúng, khiến cho động vật ăn thịt nhầm lẫn và không thể xác định được mục tiêu.


    Bọ que có khả năng sinh sản gần như không cần con đực. Những con cái không kết hôn sinh ra trứng, và số lượng con cái trở nên nhiều hơn. Trong trường hợp, một người đàn ông giao phối với một phụ nữ, có cơ hội 50/50 con của chúng sẽ là nam giới. Một con bọ que cái có thể để ra 100 trứng đều là con cái. Có nhiều loài bọ que mà các nhà khoa học vẫn chưa tìm thấy được con đực.


    Nếu bị đe dọa, một con bọ que sẽ sử dụng bất cứ thứ gì mà chúng có để ngăn chặn kẻ tấn công của nó. Một số sẽ nôn ra một chất khó chịu và đặt mùi vị kinh khủng này trong miệng của động vật ăn thịt đang đói. Những người khác phản chiếu máu chảy hôi thối từ các khớp trong cơ thể. Một số loài bọ que nhiệt đới có thể sử dụng gai chân, giúp chúng leo lên, để gây đau đớn cho kẻ thù. Những con côn trùng dính thậm chí có thể dẫn một loại hóa chất, giống như hơi cay, cho những kẻ muốn hại chúng.


    Một khi ấu trùng đã lột da, nó dễ bị tổn thương trước kẻ thù cho đến khi lớp vỏ mới của nó hình thành. Da lột của nó là một chất gây chết người cho kẻ thù, do đó con nhộng bọ que sẽ sử dụng lợi thế này để khiến kẻ săn mồi phải bỏ đi. Ấu trùng bọ que cũng tái chế protein bằng cách ăn da bị lột của nó.

    Bọ que
    Bọ que
    Bọ que
    Bọ que
  4. Mực nang là động vật thân mềm được tìm thấy trên khắp các đại dương trên thế giới. Có hơn 100 loài mực nang khác nhau trên thế giới. Mực nang nổi tiếng với sức mạnh ngụy trang tuyệt vời. Với sự giúp đỡ của hàng triệu tế bào sắc tố, mực nang có thể dễ dàng thay đổi màu sắc phù hợp với môi trường xung quanh. Và do đó, mực nang có thể hoàn toàn “tàng hình” dưới đáy biển. Nó cũng giúp chúng không bị phát hiện bởi những kẻ săn mồi lớn.

    Điều thú vị về Mực nang:

    • Mực nang là một trong những động vật không xương sống thông minh có ở các đại dương của thế giới.
    • Có 2 xúc tu dài và 8 vòi.
    • Mực nang sử dụng kỹ thuật thay đổi màu trong quá trình giao phối.
    • Mực nang là mù màu
    • Chúng có thể nhìn thấy ánh sáng phân cực mà là vô hình với con người.

    Bộ Mực nang (danh pháp hai phần: Sepiida) là một bộ động vật nhuyễn thể thuộc lớp Cephalopoda

    (trong đó cũng bao gồm mực ống, bạch tuộc và ốc anh vũ). Mực nang có một lớp vỏ bên lớn, con ngươi hình chữ W, tám vòi và 2 xúc tu có các miệng hút có răng cưa để giữ chặt con mồi của chúng. Mực nang có kích thước từ 15 cm (5.9 inch) đến 25 cm (9,8 inch), với loài lớn nhất, Sepia apama, có áo đạt chiều dài 50 cm (20 inch) và nặng hơn 10,5 kg.


    Mực nang ăn động vật thân mềm nhỏ, cua, tôm, cá, bạch tuộc, giun và mực nang khác. Động vật ăn thịt mực nang bao gồm cá heo, cá mập, cá, hải cẩu, chim biển và mực nang khác. Tuổi thọ của chúng là khoảng 1 - 2 năm. Những nghiên cứu gần đây chỉ ra rằng mực nang là một trong những động vật không xương sống thông minh nhất. Mực nang cũng có tỷ lệ kích thước não so với cơ thể thuộc dạng lớn nhất trong số tất cả các động vật không xương sống

    Mực nang
    Mực nang
    Mực nang
    Mực nang
  5. Nhện cua hoa đổi màu để giống bề mặt bông hoa nơi chúng ngồi. Những con nhện được gọi là nhện cua hoa có thể thay đổi màu sắc của chúng. Tên của loài nhện này cũng đề cập đến sự giống nhau kỳ lạ của chúng với cua về hình thức thì những con nhện này giữ 2 cặp chân trước của chúng và khả năng đi ngang hoặc lùi giống loài cua. Chúng thường thay đổi màu sắc để giống với bề mặt bông hoa mà chúng ngồi để bắt con mồi.


    Khi săn mồi, nhện cua hoa ngụy trang bằng cách khoác lên một bộ "phục trang" khác nhau, lẫn vào môi trường xung quanh. Nhờ đó, chúng dễ dàng theo dõi và tiếp cận con mồi. "Nhện cua là một trong số ít loài sở hữu đặc tính thay đổi màu sắc cơ thể, khiến mắt người nhầm lẫn chúng với bông hoa nơi phục kích con mồi. Chúng tôi biết rằng nhện cái có thể đổi màu trắng hay vàng tùy thuộc vào môi trường xung quanh, nhưng không ngờ tốc độ lại nhanh đến thế", Gary Dodson, chuyên gia Đại học Ball Sate, Mỹ, giải thích.


    Trong nghiên cứu này, giáo sư Dodson cùng cộng sự Alissa Anderson ghi lại và tính toán quá trình đổi màu của cá thể nhện cái. Họ nhận thấy nhện trắng thay lớp áo vàng trong khoảng thời gian ngắn hơn khi đổi màu từ vàng sang trắng. UPI cho hay, đây là lần đầu tiên quá trình đổi màu của nhện được mô tả chi tiết trong một nghiên cứu khoa học mới.

    Nhện cua hoa
    Nhện cua hoa
    Nhện cua hoa
    Nhện cua hoa
  6. Những con ếch cây Thái Bình Dương có nguồn gốc từ bờ biển phía Tây của Bắc Mỹ có thể dễ dàng phân biệt bởi ngón chân có màng của chúng. Nó giúp chúng dễ dàng bám và leo trèo lên các cành cây. Sự đa dạng về màu sắc của da là một đặc điểm tuyệt vời của ếch cây Thái Bình Dương. Chúng có thể đượctìm thấy với nhiều màu sắc khác nhau như nâu, đỏ và xanh lá cây. Ngoài ra, ếch cây thái bình dương cũng có thể thay đổi màu sắc của chúng theo môi trường xung quanh. Sự thay đổi của màu sắc này sẽ xảy ra trong một vài phút, và với khả năng ngụy trang như vậy, rất khó cho các loài săn mồi như chim và rắn phát hiện ra loài ếch trên.


    Ếch cây Thái Bình Dương là động vật sống đơn độc, không có các hành vi xã hội, và thường chỉ đến với nhau vào mùa giao phối. Thời điểm giao phối của loài ếch cây thì sẽ những điệp khúc kêu của chúng. Một số loài ếch làm tổ trên cây ở vùng bờ biển, giao phối trên các cành cây bên trên các ao nước hay dòng suối tĩnh lặng. Do có tứ chi rất khoẻ, giữa các ngón có màng da, màng chân lớn, nếp da bên cánh tay rộng nên ếch cây có thể dễ dàng lướt mình từ cây này sang cây khác.


    Các khối trứng của chúng tạo thành khối bọt lớn trông như cái kén. Đôi khi khối bọt này khô lại dưới ánh nắng, bảo vệ độ ẩm bên trong. Khi mùa mưa đến, sau 7-9 ngày phát triển, khối bọt chảy nhỏ giọt xuống, thả những con nòng nọc nhỏ xuống dòng sông hoặc cái ao bên dưới.


    Có nhiều sở thích giao phối ở loài ếch cây. Một số loài thích giao phối khi thời tiết lạnh, một số thích thời tiết ấm áp hoặc có loài lại chọn để giao phối sau khi trời mưa. Ếch cây cũng có các hệ thống sinh sản khác nhau, phổ biến nhất trong số đó là hệ thống “Lek” - con đực sẽ tranh giành sự chú ý của con cái vào ban đêm, và con cái có quyền thống trị đối với việc lựa chọn bạn tình.

    Để thu hút con cái, ếch cây đực sẽ phát ra tiếng kêu mời gọi. Tiếng kêu có thể cho con cái biết được thông tin về giới tính và giống loài của con đực cất tiếng. Đồng thời, đó cũng là thông báo để các con đực khác tránh xa. Sau khi nghe tiếng kêu tán tỉnh, con cái sẽ tiếp cận con đực có lời mời gọi mà nó thích. Lúc này, con đực có thể phải chuyển sang tiếng kêu tán tỉnh dài hơi và ấn tượng hơn tiếng gọi giao phối thông thường trước đó.

    Ếch cây Thái Bình Dương
    Ếch cây Thái Bình Dương
    Ếch cây Thái Bình Dương
    Ếch cây Thái Bình Dương
  7. Cáo tuyết Bắc Cực (Cáo Bắc Cực) còn có tên cáo trắng hay cáo tuyết, là một trong những loài động vật đẹp nhất và có khả năng thích nghi tốt nhất ở Bắc Cực. Chúng có thể sống trong môi trường có nhiệt độ thấp -50 độ C mà không hề hấn gì. Bộ lông dày là một trong những đặc điểm giúp chúng thích nghi với khí hậu Bắc Cực băng giá. Hình dạng cơ thể ngắn tròn của chân và tai cũng cho phép chúng giữ nhiệt cơ thể.


    Trong suốt mùa đông, bộ lông trắng tuyệt đẹp của Cáo Bắc Cực cho phép chúng ngụy trang với màu tuyết. Vì vậy mà các loài cáo Bắc cực có thể dễ dàng bắt các con mồi như thỏ rừng và các loài cá. Trong mùa hè năm sau, màu sắc của chúng sẽ thay đổi sang màu nâu. Nó giúp ngụy trang tuyệt vời khi ẩn nấp trong các tảng đá rêu Bắc cực vào thời điểm đó.


    Cáo tuyết là loài cáo nhỏ sống ở môi trường lãnh nguyên Bắc Cực ở Bắc Âu, Bắc Á, và Bắc Mỹ. Đó là những khu vực cực kì lạnh giá và khắc nghiệt, tuy nhiên, cáo tuyết lại thích nghi rất tốt trong môi trường này. Bộ lông dày và hệ thống trao đổi nhiệt đặc biệt giúp loài này giữ ấm ngay cả khi nhiệt độ giảm xuống tới âm 70 độ C.


    Cáo Bắc Cực không ngủ đông và hoạt động quanh năm. Chúng tích trữ chất béo trong mùa thu và đôi khi tăng trọng lượng cơ thể lên đến hơn 50 %. Điều này giúp cách nhiệt cho cơ thể trong suốt mùa đông cũng như một nguồn cung năng lượng dồi dào khi thức ăn khan hiếm.


    Chúng sống trong các hang lớn không rã đông, bề mặt hơi nâng lên. Đó là một hệ thống đường hầm phức tạp rộng khoảng 1.000 m2 (1.200 thước Anh vuông) và thường nằm ở những ngọn đồi ngoằn nghoèo, rặng núi dài tạo nên bởi vật liệu trầm tích lắng đọng trong vùng trước đây phủ băng. Hang có rất nhiều ngõ ngách và có thể đã tồn tại suốt nhiều thập kỷ cũng như được sử dụng qua nhiều thế hệ nhà cáo.

    Cáo tuyết Bắc Cực
    Cáo tuyết Bắc Cực
    Cáo tuyết Bắc Cực
    Cáo tuyết Bắc Cực
  8. Những con bọ rùa vàng là một loài côn trùng nhỏ bé có nguồn gốc từ Bắc Mỹ. chúng thường được gọi là ‘bọ vàng’ vì màu vàng nổi bật. Khả năng thay đổi màu sắc nhanh chóng là một trong những điều đặc biệt của bọ rùa vàng trong gia đình bọ cánh cứng. Khi bị đe dọa, những con rùa bọ vàng sẽ thay đổi màu sắc rực rỡ. Sự thay đổi màu sắc này sẽ xảy ra 2 hoặc 3 phút.


    Bằng cách thay đổi hệ thống luân chuyển mạch trong cơ thể, bọ rùa vàng sẽ biến đổi hình dạng tùy vào môi trường. Bọ rùa vàng còn có khả năng thay đổi màu sắcvà hình dạng, từ vàng sang đỏ với các chấm đen. Bằng cách thay đổi hệ thống luân chuyển mạch trong cơ thể, bọ rùa vàng sẽ biến đổi hình dạng tùy vào môi trường. Đây là giống côn trùng phân bố rộng rãi ở Bắc Mỹ.


    Khi bọ rùa vàng thay đổi màu sắc, chúng sẽ giống như một con côn trùng độc. Và điều này sẽ gây ngạc nhiên cho các động vật ăn thịt. Do đó, bọ rùa vàng có thể thoát thân bởi sự thay đổi màu sắc nhanh chóng.


    Bọ rùa là nhóm côn trùng đa thực, ăn được nhiều loại thức ăn khác nhau. Về mặt này, người ta chia chúng thành hai nhóm là bọ rùa ăn thịt và bọ rùa ăn thực vật. Bọ rùa ăn thực vật là nhóm phá hoại cây trồng khá nhiều ở Việt Nam. Tuy nhiên, bọ rùa ăn thịt lại được coi là "bạn của nhà nông" bởi thức ăn của chúng là các loài sâu bọ kí sinh gồm rệp vừng (Aphidae) và rệp sáp. Bọ rùa ăn thịt có quá trình biến thái hoàn toàn, nhưng cả sâu non (giai đoạn ấu trùng) và trưởng thành đều chỉ ăn thịt, do đó một con bọ rùa ở bất kỳ giai đoạn nào nói trên đều cũng tiêu diệt được rệp cây. Một bọ trưởng thành mỗi ngày có thể ăn được đến hơn 100 con rệp cây. Do đó, người ta đã nuôi các loài bọ rùa thuộc nhóm này trên quy mô lớn để tiêu diệt rệp cây rất hiệu quả và không gây ô nhiễm môi trường và đảm bảo thực phẩm sạch trong trồng cam, trồng các loài cải quy mô lớn.

    Bọ rùa vàng
    Bọ rùa vàng
    Bọ rùa vàng
    Bọ rùa vàng
  9. Bạch tuộc biến hình hay bạch tuộc bắt chước là một loài động vật thuỷ sinh thông minh và có nguồn gốc từ khu vực Indo - Thái Bình Dương. Chúng được đặt tên như vậy là bởi vì loài này có khả năng bắt chước các động vật biển khác nhau bao gồm cả cá, sư tử, rắn biển, cá đuối gai độc và sứa. Ngoài chuyển động cơ thể, chúng cũng có thể biến thành màu sắc của động vật chúng chọn để bắt chước. Chúng cũng sử dụng thay đổi màu sắc để pha trộn với môi trường xung quanh.


    Bạch tuộc biến hình là loài sinh vật được biết đến đầu tiên với khả năng bắt chước các động vật khác. Chúng sử dụng kỹ thuật này để tránh những kẻ săn mồi và bắt mồi. Hành vi bắt chước của chúng dựa trên các loại con mồi hoặc kẻ thù đến gần.

    Điều thú vị về bạch tuộc biến hình:

    • Đa số các loài động vật khi thấy bạch tuộc bắt chước bắt chước đều tránh xa.
    • Chúng ở trong các hang hốc và đường hầm ở dưới đáy biển.
    • Bạch tuộc biến hình đủ thông minh để biết loại động vật có thể bảo vệ động vật ăn thịt chúng hành động phù hợp.
    • Nếu không có các nguồn thức ăn khác được tìm thấy, bạch tuộc bắt chước sẽ ăn lẫn nhau.

    Bạch tuộc có vòng đời tương đối ngắn, có loài chỉ sống được 6 tháng. Loài bạch tuộc khổng lồ ở Bắc Thái Bình Dương có thể sống tới 5 năm trong điều kiện lý tưởng. Tuy nhiên, sinh sản là một trong những nguyên nhân gây ra sự ngắn ngủi của vòng đời: những con bạch tuộc đực có thể chỉ sống được vài tháng sau khi kết bạn, và những con bạch tuộc cái chết không lâu sau khi ổ trứng nở.


    Bạch tuộc có đến 3 trái tim. Hai trái tim bơm máu xuyên qua hai mang trong khi trái tim thứ ba bơm máu đi khắp thân thể. Máu bạch tuộc chứa đựng protein giàu hemocyanin chuyên chở oxy. Ít hiệu quả hơn huyết cầu giàu sắt của nhóm động vật có xương sống, haemocyanin được hòa tan trong huyết tương thay vì trong những hồng cầu và tạo ra màu xanh cho máu. Bạch tuộc đưa nước vào các khoang rồi xuyên qua mang. Như những động vật thân mềm khác, bạch tuộc có những mang được chia ra và có những mạch máu quấn bên trong

    Bạch tuộc
    Bạch tuộc
    Bạch tuộc
    Bạch tuộc
  10. Cá Bơn hay cá thờn bơn là một trong số các loài cá thân bẹt. Cá bơn là một ví dụ tuyệt vời của thuật ngụy trang. Chúng có thể dễ dàng thay đổi màu sắc cơ thể phụ thuộc vào môi trường sống. Cá Bơn thường được tìm thấy ở dạng màu nâu với những mảng lớn nhỏ khác nhau. Nó sẽ thay đổi khi di chuyển đến một môi trường sống mới. Trên thực tế, các con cá bơn có thể pha trộn với bất kỳ môi trường sống mới chỉ trong vòng từ 5 - 8 giây.


    Khi một con cá bơn ở trong một môi trường sống mới, cơ thể của chúng sẽ sử dụng ánh sáng nhận được thông qua võng mạc để phát hiện màu sắc của bề mặt. Sau đó, cơ thể sẽ giải phóng các chất màu khác nhau để các tế bào trở thành màu sắc của môi trường sống mới. Ngoài các kỹ thuật ngụy trang, cá bơn chỉ đi săn vào ban đêm cho nên nó càng khó bị phát hiện hơn bởi những kẻ săn mồi như cá mập và cá chình.


    Đặc điểm nổi bật của nhiều loài cá trong bộ này là có cả hai mắt nằm ở một mặt bên của đầu (còn mặt bên kia thì không có mắt nào cả); trên thực tế lúc mới sinh cá thân bẹt có 2 mắt nằm 2 bên đầu như các loài cá thông thường nhưng trong quá trình phát triển thì một mắt dần dần chuyển sang mặt bên kia. Một số loài quay mặt "trái" lên trên, một số khác lại quay mặt "phải" lên trên, còn các loài còn lại thì khi thì quay mặt này, khi thì quay mặt kia lên trên.

    Điều thú vị về Cá bơn:

    • Cá bơn có thể phát triển một độ dài từ 12,7 cm đến 63 cm.
    • Chúng thường bất động dưới đáy biển và ẩn mình với môi trường xung quanh.
    • Cá bơn tấn công bất ngờ vào con mồi như cua, tôm, cá nhỏ.
    • Cá bơn sử dụng tầm nhìn, nội tiết tố và các tế bào da chuyên biệt để thay đổi màu sắc phù hợp với môi trường xung quanh.
    Cá Bơn
    Cá Bơn
    Cá Bơn
    Cá Bơn
  11. Rắn lục núi là loài rắn mù màu, có thể thay đổi màu sắc cơ thể theo từng hoàn cảnh sống. Rắn lục núi có tên khoa học là Ovophis monticola, là loài rắn mù màu, có khả năng thay đổi màu sắc cơ thể theo từng hoàn cảnh sống. Do mù màu nên ban ngày chúng thường lẩn trốn và kiếm ăn vào ban đêm. Đây là loài rắn cực độc đối với các loài động vật máu nóng.


    Tên gọi của chúng bắt nguồn từ đặc điểm màu sắc nổi bật trên thân của rắn hổ xanh. Trên lưng của chúng được bao phủ bởi lớp vảy có màu xanh lá cây. Phần bụng có màu xanh nhạt hoặc màu vàng. Thân của loài rắn này to ở giữa và nhỏ dần về phía đuôi và cổ. Loài rắn này cũng đặc biệt bởi có đầu hình tam giác, màu xanh lá cây to hơn phần cổ rất nhiều. Đôi mắt màu đỏ luôn nhìn về phía trước để tìm kiếm con mồi và tránh các mối đe dọa.


    Rắn lục xanh thường sinh sống trên cây hoặc dưới mặt đất ở các khu rừng, bụi rậm, đồng cỏ hay rừng trúc. Với đặc điểm thân hình màu xanh lá cây nên trong quá trình săn mồi và chạy trốn kẻ thù, chúng có thể dễ dàng lẩn trốn và ngụy trang ở trên các tán lá cây.


    Rắn lục núi thường săn mồi vào ban đêm, ban ngày chúng chui vào hang hoặc hốc cây. Thức ăn của loài rắn này là các loài động vật có vú nhỏ, thằn lằn, chim. Loài rắn này phân bố chủ yếu ở các Ấn Độ, Myanmar, Trung Quốc, Thái Lan, Việt Nam và một số nước khác ở Nam Á. Ở Việt Nam, rắn lục xanh được tìm thấy nhiều ở các tỉnh miền núi phía Bắc, miền Trung và Tây Nguyên.

    Rắn lục núi
    Rắn lục núi
    Rắn lục núi
    Rắn lục núi
  12. Bộ lông sơn dương có màu sắc và chiều dài thay đổi theo mùa. Vào mùa hè, bộ lông có màu nâu nhạt, xám, hoặc xám pha đỏ hung, lông mịn và ngắn. Đến mùa đông lạnh giá, bộ lông chuyển sắc xám hơn, mọc rậm rạp và dài hơn. Lông dưới bụng có màu trắng. Lông ở ống chân có màu đen và trắng. Sơn dương núi Pakistan là loài lưỡng hình giới tính, con đực có bộ lông bờm trắng hoặc sẫm màu (giống như bờm của loài ngựa hoặc sư tử), mọc dài thòng xuống trên cằm, cổ, ngực và ống chân. Con cái có bộ lông ngắn, màu đỏ hung, trông có vẻ mảnh mai, râu đen ngắn và không có bờm.


    Giống như nhiều loài dê hoang dã khác, Sơn dương núi Pakistan leo trèo rất khéo léo và nhanh nhẹn, chúng có thể đứng được trên vách đá dốc đứng; thậm chí còn có thể nhảy qua địa hình núi đá dễ dàng. Sơn dương núi Pakistan thích nghi địa hình đồi núi, tìm được khoảng từ giữa 600 đến 3.600 mét so với mực nước biển, tùy theo mùa, mùa hè sống ở độ cao cao hơn, mùa đông sống ở độ cao thấp hơn. Loài này thường sinh sống nơi rừng cây bụi, mọc chủ yếu cây sồi (Quercus ilex), thông (Pinus gerardiana), bách xù (Juniperus macropoda). Sơn dương cũng thích nghi bên vách đá khô cằn, hẻm núi dốc ở miền núi thưa thớt cây cối thuộc phía tây dãy Hymalaya ở Trung Á.


    Vào mùa hè, Sơn dương núi Pakistan thường nằm ở những nơi thông thoáng, trong bóng mát của ngọn núi hoặc dưới những bụi cây nhỏ, chúng không bao giờ nằm trên đá hay chỗ bằng phẳng. Sơn dương thường nghỉ ngơi vào ngày nóng bức. Vào mùa đông, Sơn dương núi Pakistan thường di chuyển hằng ngày khoảng 2–5 km, đến sườn núi phía nam hoặc những khu vực ấm áp của ngọn núi. Nhằm tránh vùng tuyết sâu, rơi dày đặc, tránh những sông băng hà ở độ cao lớn. Sơn dương sẽ trú ẩn dưới các vòm đá gần chân vách núi, nơi trú ẩn thường có tầm nhìn tốt.


    Đây là loài ban ngày, hoạt động cả ngày, cao điểm vào sáng sớm và chiều tối.

    Sơn dương núi Pakistan
    Sơn dương núi Pakistan
    Sơn dương núi Pakistan
    Sơn dương núi Pakistan


loading...