Top 10 Phim samurai hay nhất mọi thời đại khiến bạn không thể rời mắt

Samurai là một thuật ngữ ám chỉ những võ sĩ của người Nhật Bản, họ là những con người có ý chí lớn, sẵn sàng hi sinh mình để bảo vệ cho người khác. Samurai ... xem thêm...

  1. Harakiri là một bộ phim truyền hình jidaigeki của Nhật Bản năm 1962 của đạo diễn Masaki Kobayashi. Câu chuyện xảy ra giữa năm 1619 và 1630 trong thời kỳ Edo và sự cai trị của Mạc phủ Tokugawa.


    Harakiri (Seppuku) lấy bối cảnh vào đầu thế kỷ 17 trong thời kỳ Edo. Phim kể về một chiến binh không có chủ và muốn tự sát theo nghi thức tại gia tộc Li samurai do một biến cố xảy ra với gia đình.


    Đầu tiên anh nhớ lại câu chuyện cùng những gì đã xảy ra với gia đình anh. Đó là một câu chuyện chậm rãi nhưng cuối cùng được xây dựng thành một cảnh chiến đấu hoàn toàn tuyệt vời.


    Quay phim tuyệt đẹp với hai màu đen và trắng, hiển thị bố cục cảnh quay đáng kinh ngạc và những điều cấm kỵ bạo lực ngập tràn sắc đỏ máu. Harakiri của Masaki Kobayashi không phải là một câu chuyện siêu anh hùng samurai mà là về sự trả thù hoàn hảo.

    Harakiri (1962)
    Harakiri (1962)
    Harakiri (1962)
    Harakiri (1962)

  2. The Sword of Doom – Daibosatsu Tōge (Lưỡi Kiếm Diệt Vong), là một bộ phim thuộc thể loại Jidai-geki sản xuất năm 1966 của đạo diễn Kihachi Okamoto, người được xếp vào một trong những đạo diễn bậc thầy của điện ảnh xứ mặt trời mọc. Kịch bản được Shinobu Hashimoto xây dựng dựa trên kiệt tác văn học cùng tên, một đại trường thiên tiểu thuyết võ hiệp của văn hào Nakazato Kaizan, được đăng liên tục trên các báo Miyako, Mainichi, Yomiuri từ năm 1913 đến 1941 gồm 41 quyển và chỉ dừng lại vì tác giả đột ngột qua đời. Tên gốc trong tiếng Nhật của bộ phim cũng như tiểu thuyết là Daibosatsu Tōge có nghĩa là Đèo Đại Bồ Tát, một địa danh có thật ở tỉnh Yamanashi. Hình tượng ngọn đèo ở đây được lấy ra làm một ý nghĩa ẩn dụ ví như ranh giới giữa vô minh và hữu minh, thể hiện thế giới quan của Phật giáo Đại thừa và muốn nhấn mạnh vào nghiệp báo của từng chúng sinh thông qua nhân vật Ryunosuke Tsukue, một võ sĩ vô chủ (ronin) theo chủ nghĩa hư vô.


    Bối cảnh phim diễn ra vào thời kỳ cuối thời Mạc phủ Tokugawa, xoay quanh một kiếm sĩ vĩ đại bất khả chiến bại Ryunosuke Tsukue (Tatsuya Nakadai), nhưng thực chất là một ronin lạnh lùng, tàn bạo và vô luân, thực sự đáng khinh khi hành động không vì mục đích gì cả, giết người không gớm tay, cả người vô tội không vũ khí. Trong một cuộc đấu so tài không sinh tử đã được sắp đặt phải thua, nhưng vì một người đàn bà mà Tsukue đã ra đòn tàn độc giết chết đối thủ. Bị trục xuất, Ryunosuke trở thành sát thủ cho Shinsengumi, đội quân cảnh sát mật của Mạc phủ, để rồi ngày càng lún sâu vào tà đạo. Thế nhưng núi cao còn núi khác cao hơn. Trong một vụ ám sát bất thành, Ryunosuke đã gặp một kiếm sĩ bậc thầy khác, Shimada Toranosuke (Toshiro Mifune), tình cờ lại là sư phụ của Hyoma Utsuki (Yuzo Kayama), người em trai của đối thủ bị Ryunosuke giết năm xưa đang tầm sư luyện kiếm trả thù cho anh. Tận mắt chứng kiến trình độ kiếm thuật uy vũ hý lộng đất trời của Shimada, sự ngông cuồng của Ryunosuke dần lui xuống nhường chỗ cho nỗi bất ổn đang len lỏi vào tâm can. Tâm tư càng hỗn loạn, Ryunosuke bắt đầu cảm thấy những hồn ma của tất cả những người mình đã giết. Hơn nữa, bị ám ảnh bởi câu nói của Shimada: “Kiếm là linh hồn. Rọi soi linh hồn để biết kiếm. Tâm ma, kiếm ma”, Ryunosuke càng trở nên điên loạn…

    The Sword of Doom – Daibosatsu Tōge (Lưỡi Kiếm Diệt Vong) - 1966
    The Sword of Doom – Daibosatsu Tōge (Lưỡi Kiếm Diệt Vong) - 1966
    The Sword of Doom – Daibosatsu Tōge (Lưỡi Kiếm Diệt Vong) - 1966
  3. Bộ phim 13 Sát thủ - 13 Assassins 2010 chọn bối cảnh nước Nhật giữa thế kỷ 19 (1844-1845), mở đầu với một cảnh đẫm máu. Một người đàn ông trung niên mổ bụng tự tử trước tư dinh của lãnh chúa Naritsugu để phản đối các hành vi tàn ác của bề trên. Cái chết của ông không làm cho tướng quân thức tỉnh, mà lại khiến cho gia đình ông chuốc thêm tai họa vào đầu: cả dòng họ đều bị hành quyết.


    Tướng Naritsugu, một người hung dữ độc ác, là em trai của Mạc chúa Akashi, người nắm giữ mọi thực quyền ở triều đình Nhật thời bấy giờ. Hai anh em đóng quân tại kinh thành Edo (tên thời xưa của thủ đô Tokyo), trên danh nghĩa là để phò tá Thiên hoàng và quý tộc, nhưng thật ra là để lấn quyền kiểm soát hoàng cung.


    Bộ phim này dựa trên các sự kiện lịch sử lấy bối cảnh năm 1844, nơi mười hai samurai và một thợ săn lên kế hoạch giết một lãnh chúa độc ác.


    Đây là phiên bản làm lại phiên bản cùng tên năm 1963 nhưng vẫn có bản sắc riêng với những cảnh chiến đấu cực kỳ ấn tượng. Đây là một trong những bộ phim samurai hiện đại hay nhất.

    13 Sát Thủ - 13 Assassins (2010)
    13 Sát Thủ - 13 Assassins (2010)
    13 Sát Thủ - 13 Assassins (2010)
    13 Sát Thủ - 13 Assassins (2010)
  4. Kiếm Sĩ Cơ Hàn (The Twilight Samurai) là một bộ phim lịch sử Nhật Bản năm 2002 do Yoji Yamada đạo diễn và đồng biên kịch với Hiroyuki Sanada và Rie Miyazawa. Bộ phim được lấy cảm hứng từ truyện ngắn “Thanh kiếm tre” của Shuhei Fujisawa, lấy bối cảnh vào giữa thế kỷ 19 của Nhật Bản, một vài năm trước khi Minh Trị phục hồi và kể về cuộc đời của Seibei Iguchi.


    Khi bắt đầu bộ phim, nhân vật chính Iguchi Seibei trở thành người góa vợ sau khi vợ anh qua đời vì căn bệnh lao. Anh là một samurai cấp thấp, làm việc trong kho ngũ cốc giữ hàng tồn kho cho các gia tộc. Các đồng nghiệp samurai khác nhạo báng anh sau lưng với biệt danh Tasogare (Chạng vạng). Sở dĩ gọi như vậy vì Seibei không hề tham gia vào các cuộc vui, giải trí cùng các Samurai mà anh chỉ biết sống và làm việc để nuôi hai cô con gái cùng người mẹ đãng trí của mình.


    Mặc dù là một samurai, Seibei bỏ bê ngoại hình, không tắm hoặc cạo đầu và mặc quần áo đáng xấu hổ. Sức khỏe của con gái và thuốc men cho mẹ anh được ưu tiên hơn quần áo mới hoặc phí tắm hàng tháng và con gái anh nói rằng cả hai đều hạnh phúc, ngay cả khi không có mẹ.


    Mọi thứ thay đổi khi người bạn thời thơ ấu của Seibei là Tomoe trở về thị trấn. Cô là em gái của Iinuma Michinojo, một trong những người bạn samurai tốt bụng và được xếp hạng cao hơn nhiều trong gia tộc. Chồng cũ của Tomoe Koda xông vào gia đình Michinojo vào giữa đêm khi đã say xỉn để tìm Tomoe và còn thách đấu tay đôi với Michinojo. Seibei chấp nhận thay mặt Michinojo để thách đấu và câu chuyện từ đây chuyển sang bước ngoặt mới.

    The Twilight Samurai (2004)
    The Twilight Samurai (2004)
    The Twilight Samurai (2004)
    The Twilight Samurai (2004)
  5. The Samurai Trilogy bộ ba phim do Hiroshi Inagaki làm đạo diễn. Nội dung của các bộ phim dựa trên nguyên tác tiểu thuyết "Miyamoto Musashi" của văn hào Yoshikawa Eiji. Tác phẩm này là cuốn sách gối đầu giường của nhiều thế hệ người Nhật và là một trong những bộ sách bán chạy nhất cho đến nay từ khi xuất hiện. Miyamoto Musashi (1584 - 1645), còn có tên Shinmen Takezo, Miyamoto Bennosuke hoặc pháp danh Niten Doraku, là một kiếm sĩ bậc thầy, nhà triết học võ thuật người Nhật và là một ronin. Người đời biết đến ông với tên gọi Musashi, người trở nên nổi tiếng thông qua những câu chuyện về kiếm pháp song kiếm hoàn hảo và độc đáo của ông, cũng như kỷ lục bất khả chiến bại trong 61 trận đấu (so với 33 trận của Ito Ittosai). Ông là người sáng lập trường phái kiếm thuật Hyoho Niten Ichi-ryu, hay Niten-ryu, và trong những năm cuối đời là tác giả của "Ngũ luân thư" và "Độc hành đạo". Miyamoto Musashi của The Samurai Trilogy mượn hình ảnh người kiếm khách vô song trong lịch sử Nhật Bản này để nói lên tinh thần cầu đạo, bất khuất và đề cập đến những vấn đề trong xã hội phong kiến, qua đó nói lên những bế tắc trong giai đoạn nước Nhật lâm vào cuộc đệ nhị Thế chiến. Musashi (Toshirô Mifune) tượng trưng cho tinh thần cầu đạo, kiên cường của con người, còn nhân vật hư cấu Matahachi (Rentaro Mikuni) là hiện thân của sự sa ngã, trụy lạc, Otsu (Kaoru Yachigusa) là biểu tượng của Bồ đề tâm, lòng từ bi; bà cụ Osugi (Eiko Miyoshi), mẹ của Matahachi tượng trưng cho chấp niệm, bảo thủ...


    Sự thành công của Samurai: Miyamoto Musashi (1954) đã dẫn đến hai bản phim tiếp theo là Zoku Miyamoto Musashi Ichijo-ji no ketto -1955 (Miyamoto Musashi phần tiếp: Quyết Đấu Ở Nhất Thừa Tự) và Miyamoto Musashi kanketsu-hen Ganryu-jima no ketto - 1956 (Miyamoto Musashi phần kết: Quyết Đấu Trên Đảo Ganryu). Loạt ba bộ phim này được công chiếu ở quốc tế và gây được tiếng vang lớn, và được gọi là Samurai Triology. Khi nhận được giải thưởng Oscar, đạo diễn Inagaki Hiroshi đã kinh ngạc thốt lên rằng không thể ngờ chàng "Samurai" của mình lại thắng lớn ở kinh độ điện ảnh của Thế giới, "tôi chưa từng nhận được giải thưởng điện ảnh nào ở Nhật Bản, giờ lại nhận được giải từ nước Mỹ thì thật chẳng thể hiểu nổi".

    Hình minh họa
    Hình minh họa
    Hình minh họa
    Hình minh họa
  6. Kill! (1968) là một bộ phim hài kịch Nhật Bản năm 1968 do Kihachi Okamoto đạo diễn. Bộ phim đã có một kịch bản được viết bởi Akira Murao và Okamoto, và được dựa trên câu chuyện Torideyama không jushichinichi ( lit. '17 ngày tại Fort núi) trong Yamamoto Shugoro zenshu (1964) bởi Shūgorō Yamamoto.


    Tatsuya Nakadai đóng vai Genta, một cựu samurai bị vỡ mộng với lối sống samurai và bỏ lại nó để trở thành một thành viên băng đảng yakuza lang thang Anh gặp Hanjirō Tabata (Etsushi Takahashi) một nông dân muốn trở thành samurai để thoát khỏi sự tồn tại bất lực của anh ta. Genta và Tabata xuất hiện ở hai phía đối nghịch của âm mưu gia tộc khi bảy thành viên của một gia tộc địa phương ám sát thủ tướng của họ. Mặc dù cả bảy người, do Tetsutarō Oikawa (Naoko Kubo) lãnh đạo đã nổi dậy với sự hỗ trợ của cấp trên, Ayuzawa (Shigeru Kōyama), anh ta đã lật tẩy họ và cử các thành viên của gia tộc giết họ như những kẻ ngoài vòng pháp luật.


    Bộ phim là một cuộc khám phá cường điệu một cách hài hước về thế nào là một samurai. Các nhân vật hoặc từ bỏ địa vị samurai hoặc chiến đấu để đạt được nó, và các samurai được coi là hành xử vừa danh dự vừa rất tồi tệ. Bộ phim có một giai điệu nhại lại, với nhiều liên quan đến các bộ phim samurai trước đó.


    Kill! (1968) được phát hành rạp tại Nhật Bản vào ngày 22 tháng 6 năm 1968, nơi nó được phân phối bởi Toho. Nó được phát hành tại Hoa Kỳ bởi Frank lee International với phụ đề tiếng Anh vào tháng 8 năm 1968. Cùng với Human Bullet and Judge và Jeopardy, Kill! đã trao cho đạo diễn nghệ thuật Iwao Akune giải Chỉ đạo nghệ thuật xuất sắc nhất tại Mainichi Film Concours.

    Kill! (1968)
    Kill! (1968)
    Kill! (1968)
    Kill! (1968)
  7. Ghost Dog: The Way of the Samurai là một bộ phim tội phạm năm 1999 do Jim Jarmusch viết kịch bản và đạo diễn. Forest Whitaker đóng vai chính là nhân vật chính, "Con chó ma" bí ẩn, một sát thủ làm việc cho Mafia, kẻ tuân theo mã cổ của samurai như được nêu trong cuốn sách Hagakure của Yamamoto Tsunetomo.


    Đây là một bộ phim độc lập của Mỹ, do Jim Jarmusch đạo diễn và Forest Whitaker đóng vai chính. Câu chuyện diễn ra ở thành phố New Jersey, và phần lớn thời gian trên màn ảnh thể hiện một cách ấn tượng văn hóa đường phố, tâm trạng của nước Mỹ. Tuy nhiên, ở trung tâm là một kẻ sát nhân, chỉ được biết đến với cái tên Ghost Dog, người trong mọi khoảnh khắc của cuộc đời mình cố gắng thể hiện những lý tưởng cao nhất của samurai.


    Ghost Dog đi theo một ranh giới thú vị giữa chủ nghĩa hiện thực và hoạt hình (phim hoạt hình kinh điển thực sự đóng vai trò quan trọng trong việc nhấn mạnh một số điểm câu chuyện), cũng như kết hợp các yếu tố chính của điện ảnh samurai, khiến nó trở thành một trong những phim Mỹ hay nhất với phong cách phim hành động châu Á.
    Ghost Dog: The Way of the Samurai (1999)
    Ghost Dog: The Way of the Samurai (1999)
    Ghost Dog: The Way of the Samurai (1999)
    Ghost Dog: The Way of the Samurai (1999)
  8. Samurai Vendetta là một bộ phim chambara Nhật Bản năm 1959 do Kazuo Mori đạo diễn với Raizo Ichikawa và Shintaro Katsu do Daiei Film phát hành. Đó là một mô tả về những năm đầu của samurai Horibe Yasubei, một trong bốn mươi bảy Ronin.


    Câu chuyện chính của phim kể về 47 ronin, với Shintaro Katsu (được biết đến như là ngôi sao của loạt phim Zatoichi được người hâm mộ yêu thích) trong một vai diễn đột phá đầu tiên là Yasubei Horibe, một trong những samurai tham gia cuộc trả thù tấn công Chamberlain Kira vì đã giải tán tộc Asano. Những khoảnh khắc mở đầu của cuộc tấn công được kể ở phần cuối, và trên đường đến biệt thự của Chamberlain Kira, Yasubie kể lại câu chuyện chính của bộ phim trong những đoạn hồi tưởng.


    Vendetta trở thành phim báo thù hay nhất. Nhân vật của Ichikawa ra ngoài không chỉ để bảo vệ danh dự mà còn trả thù bằng mọi giá. Nói đúng ra, đây không phải là một bộ phim hành động, nhưng những cảnh chiến đấu thực sự gây được tiếng vang. Phần mở đầu đang gây náo loạn, với nhân vật của Katsu đang chống lại một vài người đàn ông với một thanh kiếm trong mỗi tay. Và trận cuối cùng, trong đó Ichikawa, bị mất một cánh tay và bắn vào một chân, đấu với hàng tá kẻ tấn công từ mặt đất. Đây quả là một anh hùng bạn có thể bắt gặp trong rất nhiều phim samurai.

    Samurai Vendetta (1959)
    Samurai Vendetta (1959)
    Samurai Vendetta (1959)
    Samurai Vendetta (1959)
  9. Red Sun là bộ phim Spaghetti Western hợp tác quốc tế giữa Pháp-Ý năm 1971 do Terence Young đạo diễn và có sự tham gia của Charles Bronson, Toshirō Mifune, Alain Delon, Ursula Andress và Capucine.


    Ở Old West, một chuyến tàu chở đại sứ Nhật Bản trên đường đến Washington DC đã bị cướp bởi một băng đảng do Charles Bronson cầm đầu và một tay súng tàn nhẫn. Trong quá trình cướp, tay súng đã phản bội và Bronson lập nhóm với một trong những vệ sĩ của đại sứ (Toshiro Mifune), và họ cùng nhau tìm kiếm bạn gái của tay súng với ý định lấy lại thanh kiếm. Họ chỉ có một tuần để làm tất cả điều này; nếu anh ta thất bại, Mifune phải chết.


    Đây là một sản phẩm quốc tế có sự tham gia của các diễn viên châu Âu, Mỹ và Nhật Bản, do đạo diễn người Anh Terence Young làm đạo diễn. Red Sun kết hợp điện ảnh phương Tây trong bộ phim samurai, được thúc đẩy bởi những diễn viên hấp dẫn. Bronson và Mifune rất hợp nhau khi họ đi qua các sa mạc ở phía tây nam nước Mỹ (thực ra là Tây Ban Nha, nhưng bạn hầu như không nhận thấy sự khác biệt) gặp phải những tay súng nóng tính khó chịu…


    Bronson hài hước một cách kỳ lạ khi anh hùng biến thành kẻ cướp, tay súng là một kẻ giết người lạnh lùng và Mifune hết sức lôi cuốn khi thể hiện vai một samurai đáng thương, có thể cam chịu (và anh ta xử lý tiếng Anh đối thoại khá tốt).

    Red Sun (1971)
    Red Sun (1971)
    Red Sun (1971)
    Red Sun (1971)
  10. Shogun's Samurai (柳生一族の陰謀 Yagyū Ichizoku no Inbō?) là một bộ phim lịch sử võ thuật Nhật Bản kỳ năm 1978 của đạo diễn Kinji Fukasaku. Bộ phim nhận được 5 giải thưởng của Viện Hàn lâm Nhật Bản đề cử cho diễn viên xuất sắc nhất (Kinnosuke Yorozuya), chỉ đạo nghệ thuật xuất sắc nhất (Norimichi Ikawa), phim hay nhất, kịch bản hay nhất (Kinji Fukasaku, Tatsuo Nogami, Hiro Matsuda) và nam diễn viên phụ xuất sắc nhất (Shinichi Chiba).


    Sau cái chết của Shogun Tokugawa Hidetada, hai người con trai của ông tranh giành quyền lực bằng mưu mô và khuất phục. Mọi thứ bắt đầu tồi tệ khi việc Shogun bị đầu độc được đưa ra ánh sáng, và trở nên tồi tệ hơn khi Yagyu Munenori, bậc thầy đấu kiếm với Iemitsu Tokugawa, thừa nhận với hoàng tử rằng anh ta đã trực tiếp tham gia vào âm mưu giết cha mình để mở đường cho đến Mạc phủ.


    Để giúp thúc đẩy mọi thứ, Yagyu nhờ trợ giúp của một nhóm ninja trung thành với anh ta, hứa rằng với chiến thắng trước Tokugawa Tadanaga, họ sẽ lấy lại quê hương. Đứng đầu bang hội là Yagyu Jubei (do Sonny Chiba thủ vai), con trai của Munenori và cũng là một kiếm sĩ nổi tiếng. Những gì xảy ra sau âm mưu của Yagyu là một loạt các vụ ám sát, chiến đấu, phản bội và đấu tay đôi dẫn đến một kết thúc rất kỳ lạ và rất thỏa mãn.


    Những gì bạn được xem là những ninja chiến đấu chống lại samurai, những nhân vật kỳ lạ và một số cảnh chiến đấu và trận chiến rất hay.

    Shogun’s Samurai (1978)
    Shogun’s Samurai (1978)
    Shogun’s Samurai (1978)
    Shogun’s Samurai (1978)


loading...