Kinh Mậu Đại Tống - Ngô Tứ Quân

Chương 192: Năm ấy cố nhân về

190@-

"Thôi bỏ đi, nói với ngươi cũng được. Đôi chùy này là của một vị bằng hữu của ta. Ngươi không dùng thứ này, giữ lại có ích gì đu. Bán cho ta, để ta làm đồ tưởng niệm." Tần Quyên đành phải nhịn cơn nóng giận, hòa hoãn nói với Ngột Lâm Nộ.


 


Ngột Lâm Nộ không đấu võ mồm với hắn nữa, nhìn hắn đầy thắc mắc.


 


"Ngươi tránh ra. Chuyện này để sau tính tiếp." Ngột Lâm Nộ muốn bỏ đi.


 


Tần Quyên ngăn hắn lại, "Vậy ngươi nhớ giữ lời."


 


"......" Ngột Lâm Nộ lạnh mặt, roi ngựa thoáng run lên, nhưng rồi dứt khoát dong ngựa đi vào bãi săn.


 


"Đánh rồi à?" Sau một hồi trống, những tiếng xôn xao phấn khích bắt đầu vang lên.


 


Tần Quyên cũng nhìn về phía bãi săn.


 


Trên bãi săn đã bắt đầu có một cặp giao đấu. Ai nấy đều mặc trọng giáp toàn thân cả người lẫn ngựa.


 


Không nghi ngờ gì nữa, Khoách Đoan vương muốn phô trương sức mạnh của quân đội Mông Cổ, tuyên bố với tất cả mọi thế lực rằng thủ hạ dưới trướng hắn ai ai cũng có trọng giáp và binh khí hạng nhất.


 


Tần Quyên không hiểu,, để hai kỵ binh mặc giáp toàn thân giao đấu làm gì? Chẳng lẽ KHoách Đoan vương muốn thử xem ai có khả năng đâm hỏng giáp đối phương trước....


 


"........" Tần Quyên theo dõi trận đấu được một lúc. Có lẽ hai người giao đấu trên bãi săn cũng cảm thấy vô vị nên giao chiến một hồi rồi rơi đi.


 


Cặp đấu tiếp theo là giữa hai vị tướng mà hắn quen, đấu vật trọng giáp.


 


Lúc còn ở kỵ binh doanh, Tần Quyên cũng rất thích xem trò này. Trong mắt các tướng quân và phó tướng, đấu vật mới là võ nghệ đích thực.


 


Đấu vật và kỵ xạ là hai bộ môn chủ yếu của kỵ binh trọng giáp, nhưng bởi điều kiện khác nhau nên một số doanh chú trọng huấn luyện kỵ xạ đao kiếm, một số doanh lại chú trọng đấu vật.


 


Theo như hắn biết, Ninh Bách và Tề Lâm chính là hai cao thủ bậc nhất về kỵ xạ và đấu vật. Bởi sở hữu cả hai nhân vật ưu tú ấy nên lính của Ninh Bách được coi là tiêu chuẩn cao nhất ở Cát Cáp Bố doanh.


 


Ngẫm lại, thời gian ấy hắn không có mấy cơ hội tiếp xúc với kỵ binh Hột Nhan thị và Đóa Nhan thị. Họ đều là các doanh trại trọng về đấu vật.


 


Đấu vật trọng giáp là hình thức võ thuật lưu hành chủ yếu trong quân doanh, sau này mới phổ biến trong dân gian. Người dân bỏ đi yếu tối "trọng giáp", tập trung vào "đấu vật."


 


Môn này tốn rất nhiều thể lực, bởi bản thân trọng giáp đã rất nặng rồi, còn phải chịu lực tác động từ đối phương nữa, rất dễ bị thương.


 


Trong sử sách, Ngụy Võ Tốt thời Xuân Thu chiến quốc đã chọn đấu vật làm phương thức huấn luyện trọng binh chủ chốt.



 


Nếu thật sự so tài, Tần Quyên biết với thể trọng của bản thân thì không cách nào chống lại những tướng quân chuyên luyện bộ môn này.


 


Đó cũng là lý do hắn tập trung vào kỵ xạ và đao pháp.


 


Đấu vật trọng giáp đòi hỏi phải có chiều cao cân nặng vượt trội, tạng người vạm vỡ dũng mãnh ngư Tề Lâm vậy. Chứ một khi đã bị đối phương dùng toàn lực lao vào, dù hắn có nội lực hộ thân đi nữa cũng sẽ bị áp đảo.


 


Trận đấu vật giữa các tướng lãnh khiến cho bầu không khí sục sôi, tiếng hoan hô vang lên hết đợt này đến đợt khác.


 


Nhưng tới lúc Chỉ Tất Thiếp Mộc Nhi ra sân, sự phấn khích mới lên đến đỉnh điểm.


 


Tần Quyên tìm đường lẻn đi ngay lúc đó.


 


Hắn không phải tên ngốc, còn đứng ở đây thì sẽ bị xách rat hi đấu với Chỉ Tất Thiếp Mộc Nhi, thế có khác nào nằm im chịu đòn.


 


Trụ giáp trên người Chỉ Tất Thiếp Mộc Nhi kiên cố hơn hắn mấy lần.


 


"Thế tử, không tìm được người." Có người nhỏ giọng nói với Chỉ Tất Thiếp Mộc Nhi.


 


Chỉ Tất Thiếp Mộc Nhi biến sắc, "Gọi Ngột Lâm Nộ tới đây."


 


Khi Ngột Lâm Nộ tới, hai người hành lễ với nhau, sau đó hét một tiếng vang trời.


 


Tần Quyên đã trốn thoát, bèn thở phào một hơi, cởi bỏ áo giáp nặng nề.


 


Lão già Khoách Đoan vương gọi hắn tới để cảm nhận sự bá đạo của giáp trọng binh sao? Thế thì hắn đã cảm nhận được rồi.


 


Mặc thứ này giữa tháng tư khiến hắn đổ mồ hôi khắp người, sau đó lại bị gió đêm thổi lạnh ngắt. Tần Quyên đứng đó một lát, quyết định mặc thêm áo cổ tròn.


 


Trong lúc mặc đồ, hắn cảm nhận thấy có người sau lưung mình, lập tức quay đầu lại. Người kia giật mình, hành lễ với hắn rồi vội bỏ đi.


 


Tần Quyên thấy nghi hoặc. Người đó đi mất rồi, hắn mới sực nhận ra đó là một hòa thượng. Sở dĩ hắn biết là vì người đó mặc trăng phục tăng nhân Thổ Phiên, đầu đội mũ cao, cong về phía trước. Ban nãy, hòa thượng kia đứng ở góc tối nên hắn mới không kịp phản ứng.


 


Tần Quyên không quá để tâm, đi tới ngồi bên một cái bàn đá. Hắn tính toán, lát nữa mà Đóa Nô Tề không tìm hắn gây phiền toái thì hắn sẽ về phòng.


 


Chỗ này vắng lặng, không có người lui tới, không một ai quấy rầy hắn. Từ đây chẳng thấy được gì ở bãi săn, chỉ nghe thấy tiếng hoan hô vang lên hết lần này đến lần khác.


 


Sau một trận hoan hô nữa, Tần Quyên đoán Chỉ Tất Thiếp Mộc Nhi đã đánh nhau với Ngột Lâm Nộ xong rồi. Ai thắng thì cần gì phải nói. Ngột Lâm Nộ đời nào dám thắng Chỉ Tất Thiếp Mộc Nhi, mà muốn thắng cũng chẳng thắng được.



 


Không lâu sau, tiếng ngựa hí vang lên trên bãi săn. Chắc lần này là so đao pháp.


 


Trời đất, ngay cả trò này mà cũng mang ra "trình diễn" cho quần chúng xem? Tần Quyên nghe tiếng hô hào, cảm thấy đứng ngồi không yên, bèn đứng dậy đi về phía bãi săn vài bước để nghiêng ngó.


 


Đúng lúc này, có một người chạy tới, suýt va vào hắn. Hắn nhận ra nên nghiêng mình né tránh, không ngờ người đó lại dừng lại nên cả hai không va vào nhau.


 


"Ngại quá, thật xin lỗi." Người này không biết đã va vào trọng giáp Tần Quyên ôm trên tay hay chưa, nhỏ giọng xin lỗi.


 


Tần Quyên vừa nghe đã biết, đối phương chỉ là một thiếu niên.


 


Hay có khi mới là đứa trẻ mười mấy tuổi.


 


"Không sao." Tần Quyên đáp, rồi định bỏ đi.


 


Không hiểu sau, đứa bé kia vẫn đứng đó, nhìn hắn chằm chằm.


 


Lúc này Tần Quyên còn chưa đi xa, bị người ta nhìn lâu như thế, khó mà không chú ý.


 


Hắn quay đầu lại, liền trông thấy một cặp mắt sáng ngời, thoáng vẻ nghi hoặc.


 


"Sao vậy?" Tần Quyên hỏi. Có lẽ vì đôi mắt ấy quá sáng, không rõ bẩm sinh hay vì nguyên nhân nào khác.


 


"Không....không có gì...." Đứa bé có vẻ bối rối, mà bản thân cũng không biết bối rối vì sao. Nó từng gặp nhiều người đẹp rồi, dù sao quê nhà nó cũng là đất chùa miếu, nhiều khách vãng lai. Nhưng kể từ lúc người kia xuất hiện, nó mới có nhận thức về vẻ đẹp của các chủng tộc khác nhau.


 


Vẻ hùng vĩ của non xanh, vẻ hiền hòa của nước biếc. Dung mạo như thế thì khó mà gặp được hai lần.


 


Nhưng lúc này, nó không chắc người trước mặt có phải vị đại ca mà nó vẫn luôn tìm kiếm, chờ mong hay không....


 


Không chắc nữa....


 


"Ta....Ta là Cáp Na Đa Cát. Huynh tên gì....." Từ lúc tới phủ Tây Lương đến nay, đây là lần đầu tiên nó không thể nói sõi tên mình, mặt cũng ửng đỏ.


 


Nghe cái tên ấy, khuôn mặt tuấn tú của Tần Quyên nở nụ cười.


 


Hắn không nói tên mình, mà dùng ánh mắt dịu dàng quan sát đứa trẻ trước mặt.


 


Đứa trẻ năm ấy mới 5 tuổi, mà giờ đã ra dáng thiếu niên nhanh nhẹn rồi.



 


Thời gian thấm thoắt thoi đưa.


 


Thật thần kỳ, cứ như có phép màu vậy.


 


Một đứa trẻ tươi đẹp như tuấn lang dưới ánh nắng, nước da màu đồng, mắt sáng như sao, quả đúng là "Vẽ mắt cho rồng."


 


Một đứa trẻ như vậy, chỉ nhìn thôi cũng khiến người ta có cảm giác tích cực, muốn tiến về phía trước.


 


Đại lễ lần này cũng chính là tiệc đính hôn giữa Cáp Na Đa Cát với tiểu nữ nhi của Khoách Đoan.


 


Tần Quyên còn nhớ, nhiều năm trước hắn đã nghe Khoách Đoan có một nữ nhi mới chào đời, xem ra chính là tiểu nữ nhi này, giờ chắc đã 7 8 tuổi.


 


Bọn trẻ còn bé như thế mà đã được sắp xếp hôn sự cả rồi. Một là để người Tạng quy thuận, họ cần một cuộc "hòa thân" lâu dài. Khoách Đoan vương không có con gái lớn, còn cô con út này vừa may không kém tuổi Cáp Na Đa Cát nhiều lắm. Nếu để hai đứa lớn lên cùng nhau thì về sau quan hệ cũng không tồi.


 


Thứ hai, Khoách Đoan vương vội vã sắp xếp chuyện đính hôn vì sợ mình gặp chuyện, qua đời trước.


 


Khoách Đoan là kẻ mưu tính sâu xa đến mức đa nghi. Từ thời thanh niên đến tuổi trung niên, ông ta gắn liền với đất Tây Hạ cũ và biên cảnh Thổ Phiên. Để khiến Thổ Phiên quy thuận, ông ta đã dốc tâm huyết cả đời.


 


Cho nên đại lễ vừa qua chưa được mấy ngày, Khoách Đoan vương đã nằm bệnh liệt giường do vết thương cũ tái phát.


 


Cũng vì sự việc ấy, Tần Quyên mới có dịp đánh giá nam nhân này lại một lần.


 


Lúc hắn đến kinh viện, gặp thiếu niên Bát Tư Ba giờ đây đã trưởng thành, chính là biểu ca của Cáp Na Đa Cát.


 


Tùng Man và Tiểu Khúc Nhi khá thân với huynh đệ Bát Tư Ba. Vì Bát Tư Ba lớn tuổi nên trong một ngày thì có đến nửa ngày là đóng cửa ở một mình, thành ra đám Tùng Man thân với Cáp Na Đa Cát hơn.


 


Bát Tư Ba kể lại chuyện Tát Ban đại sư qua đời, chuyện vào học ở kinh viện, chuyện Phật giáo lại một lần nữa hưng thịnh ở thượng nguồn Giang Nam.


 


Đương nhiên bản thân Bát Tư Ba cũng còn nhiều nghi hoặc, nhưng hắn không ngừng học hỏi để tháo gỡ những nghi hoặc ấy. Hắn cũng nói ra những băn khoăn trong lòng với Tần Quyên để cả hai cùng bàn luận.


 


Từ xưa đến nay, phàm những kẻ không ngừng đặt câu hỏi với đời mới là những người thúc đẩy bánh xe lịch sử lăn về phía trước.


 


Cho nên đôi khi, Tần Quyên cảm thấy vô cùng ngưỡng mộ Bát Tư Ba.


 


Một thiếu niên 15 tuổi sao có thể bỏ hết tạp niệm, trong lòng chỉ đối thoại với Đức Phật?


 


Sinh ra giữa thời loạn thế này, điều đó quả thực là may mắn.



 


Thế gian này cần người tư duy, người đưa ra quyết định và người nghiêm chỉnh chấp hành. Đó là quy luật sinh trưởng của vạn vật.


 


Quy luật ấy tạo nên đạo đế vương, tạo nên ngôn luận của đấng thánh hiền.


 


Còn hắn, chỉ nằm trong ván cờ thiên hạ....


 


Một quân cờ nhỏ bé mà thôi....


 


Thiếu niên Bát Tư Ba nghe Tần Quyên nói những lời ấy bằng dáng vẻ vân đạm phong khinh, giọng nói hiền hòa, gương mặt từu bi bỗng hiện lên vẻ hoang mang xen lẫn sững sờ.


 


Dường như chưa hiểu, dường như đã hiểu.....


 


Chính bởi đạo lý mà Tần Quyên vừa nói khiến người ta bừng tỉnh, rồi lại bất lực.


 


Cho nên sau khoảnh khắc hoang mang sợ hãi, hắn quyết định từ bỏ lý luận này của Tần Quyên.


 


Chỉ là nhiều năm sau, hắn vẫn sẽ nhớ lời Tần Quyên nói.


 


Nhớ tới hai chữ quân cờ.


 


Khi đó, hoa đèn tàn lụi, đêm trăng lạnh vắng, đất trời lặng im.


 


*


 


Tần Quyên vừa ra khỏi phòng Bát Tư Ba thì Đóa Nô Tề vội vàng chạy đến, khẽ nói với hắn, "Vương gia gọi ngài."


 


Tần Quyên nhíu đôi mi dài. Gì cơ? Khoách Đoan nằm liệt giường không dậy nổi thì muốn gặp hắn làm gì?


 


----------------


 


Chú thích


 


- Đấu vật : Bökh thì các bạn ít nghe, nhưng Sumo và Judo thì hẳn là các bạn nghe nhiều rồi. Hai bộ môn võ thuật Nhật Bản này thực chất đều xuất phát từ đấu vật Mông Cổ. Môn vật của người Mông Cổ được sử dụng nhiều trong quân đội và cả trong cuộc sống hàng ngày. Khác với nhiều môn vật có thế mạnh ở các đòn tỳ, đè và khóa, thì môn vật của người Mông Cổ thiên về các đòn quật, thậm chí là nhấc bổng đối phương rồi ném ra xa đầy uy lực.


 


- Ngụy Võ Tốt : Lực lượng bộ binh nặng và vô cùng tinh nhuệ do tướng nhà Tấn và Ngô Khởi huấn luyện.


 


- Vẽ mắt cho rồng : Khi sáng tạo lân, rồng, nghệ nhân thường chừa lại đôi mắt. Người thực hiện nghi lễ "điểm nhãn" cho rồng, lân là các trưởng đoàn, nhà tài trợ, người có uy tín. Họ sẽ dùng cọ chấm vào chén châu sa (một loại khoáng chất màu đỏ) hòa với rượu trắng để điểm mắt rồng, lân. Truyền thuyết Trung Quốc cũng có một câu chuyện tương tự gắn liền với việc điểm mắt cho rồng. Trong Lịch đại danh họa ký của Trương Ngạn Viễn có câu thành ngữ "Họa long điểm tinh". Ý nghĩa là vẽ rồng điểm mắt: vẽ thân rồng trước, sau đó mới vẽ hai con mắt. Theo đó, trong hội họa, văn chương, chỉ cần chấm phá một nét quan trọng cũng khiến tác phẩm trở nên muôn phần sống động.  


Kinh Mậu Đại Tống - Ngô Tứ Quân
Bạn có thể dùng phím mũi tên trái/phải để lùi/sang chương.
Đánh giá:
Truyện Kinh Mậu Đại Tống - Ngô Tứ Quân Truyện Kinh Mậu Đại Tống - Ngô Tứ Quân Story Chương 192: Năm ấy cố nhân về
10.0/10 từ 21 lượt.
loading...