Ba Trăm Năm Không Gặp Thượng Tiên
Chương 84: Sơn hoả
231@-Những linh phách bị treo ngược trên nóc ngôi đền vừa kêu khóc vừa quơ quào tứ tung, phóng cánh cổ và hai tay dài ngoẵng giống hệt dây leo thẳng về phía Ô Hành Tuyết như muốn siết lấy chàng.
Ô Hành Tuyết không tránh né cũng không cản lại mà đứng yên đón nhận sự tấn công của chúng.
Thoáng chốc, những linh phách kia cũng sững sờ. Chúng mở to đôi mắt giăng kín tơ máu trong mê man, nhìn cái người đơn độc đứng giữa cánh đồng hoang cấm địa.
Lạ kỳ thay, chúng có thể cảm nhận được cơn giận bừng bừng trào dâng lẫn… xót thương khôn xiết từ phía người kia.
Có lẽ cơn giận mãnh liệt đi kèm áp lực nặng nề khiến chúng hơi hoảng sợ. Hoặc cũng có lẽ lòng trắc ẩn kia dạt dào như như biển rộng, nên đã đưa chúng vào một khoảng lặng.
Vẽ nên một bức tranh quái dị tột cùng —
Hàng ngàn hàng vạn linh phách với dáng vẻ đáng sợ đang vươn dài cơ thể, ngón tay quắp thành móng nhọn, nhưng ngừng bặt ngay trước cơ thể Ô Hành Tuyết khi chỉ cách chàng gang tấc.
Một linh phách trong chúng nhìn chàng chằm chặp hồi lâu, thắc mắc, “Lạ quá, hình như ta đã từng gặp ngươi…”
Ô Hành Tuyết nhìn gương mặt dài ngoẵng của người nọ, hồi lâu sau mới khẽ khàng đáp, “Ừm, đã từng gặp.”
Cách cổng vào phố núi Lạc Hoa không xa lắm có một quán trà, trước quán có một vị tiên sinh gõ thước kể những câu chuyện trong rõ thực hư ở trong sách. Trong quán có một cậu tiểu nhị lanh mồm, khách nhân nào ghé tiệm đều được cậu niềm nở chào hỏi một lúc lâu, người ta thường trêu rằng cậu chàng nồng nhiệt quá mức.
Một lần nào đó, Ô Hành Tuyết chém quá nhiều dòng rối loạn, không muốn trở về Tiên đô nên bèn đến phố núi Lạc Hoa. Khi ấy chàng ghé vào bàn cạnh cửa ở ở quán trà ngồi nghỉ ngơi giây lát. Cái cậu tiểu nhị nhanh mồm trong quán vắt khăn trên vai đến châm nước cho chàng, ném sang một cái nhìn thô kệch rồi không khỏi thốt lên, “Nhìn mặt công tử có hơi rầu rĩ, công tử gặp phải chuyện buồn lòng à?”
Nghe vậy, Ô Hành Tuyết thoáng sửng sốt, không câu nệ cái miệng thô kệch của cậu, trả lời, “Ta đang cười đây cơ mà, cậu nhìn sao lại thấy ta có chuyện buồn lòng?”
Tiểu nhị quán trọ không trả lời, cậu vừa lau cái bàn bên cạnh vừa nói, “Sau này nếu gặp phải chuyện buồn lòng, công tử cứ đến quán tôi. Nơi này cái gì thì thiếu chứ rộn rã có thừa, tôi giúp ngài bớt chút muộn phiền.”
Cậu tiểu nhị nâng cao ấm trà, vẽ dòng nước thành một đường cong dài. Cậu ta vừa tự hào ngắm nghía tay nghề của mình, vừa nói, “Đến đây uống một bình trà, nghe đôi ba mẩu chuyện thì chuyện buồn lòng gì cũng không còn nữa. Vừa rồi ông chủ có dặn hôm nay miễn phí tiền trà cho ngài.”
Cậu ta cười hì hì, nói, “Đất trời bao la, khách hàng là thượng đế. Ngài cứ ngồi đây đến khi nào vui lên hãy đi.”
Ô Hành Tuyết hãy còn nhớ rõ gương mặt cười hì hì của cậu, gương mặt đó hiện giờ bị kéo thòng xuống, phải nhìn kỹ lắm mới có thể loáng thoáng nhận ra.
Cái người trước đây đến giúp chàng mua vui lâu thật lâu, giờ đang khóc ròng đến sưng húp hai mắt, trông không giống người cũng không ra quỷ, nỉ non mà rằng, “Chúng ta khó chịu quá…”
“Ngươi biết không? Chúng ta khó chịu quá…”
“Ngươi có hiểu được không…”
“Cảm giác sống không bằng chết.”
“Đúng là sống không bằng chết.”
…
Ô Hành Tuyết chỉ lẳng lặng mà nghe, từng lời từng chữ rót vào tai chàng.
Thiên đạo vô hình cũng vô tình, chẳng màng sống chết hay khổ nạn của bất kỳ một ai trên đời. Nhưng Linh Vương thì khác…
Nếu phải trách, chỉ trách chàng đã hoá thành người, có đôi tai và một quả tim để có thể nghe thấy những lời khóc than hay mắng mỏ, có thể hiểu hết từng cụm “sống không bằng chết và “ta khó chịu quá” không ngừng lặp đi lặp lại trong miệng những linh phách kia.
Khi cảm giác trái ngang và thương xót dâng trào đến đỉnh, nó đã bùng nổ thành phẫn nộ.
Và khi phẫn nộ đạt đến đỉnh điểm thì chỉ còn lại tiếng cười.
Rốt cuộc thì Linh Vương cũng không phải con người.
Chàng không khóc, và chưa từng khóc. Suốt dòng đời dằng dẵng này, chàng chỉ biết cười.
Sương đen nồng nặc quá, khói mù đậm đặc quá. Chàng không thiết ngước nhìn trời cao, bèn cụp mắt xuống.
Chàng nghe những linh phách nọ hỏi, “Tại sao ngươi lại cười?”
Chàng nhểnh khoé miệng, “… Vì thật nực cười.”
Chàng lại nghe những linh phách nọ hỏi tiếp, “Vậy tại sao ngươi nhìn tay mình làm gì?”
Chàng đang nhìn ngón tay mình kết băng hoá thành màu trắng đầy lạnh lẽo, nói, “Ta đang nhìn… trên tay này dính bao nhiêu máu.”
Linh phách nói, “Có máu à? Tay ngươi rất sạch mà.”
Chàng lại bật cười, đôi ngươi giấu bên dưới bóng đen của hàng mi dày, chẳng lộ nổi một tia sáng. Chàng nói, “Các người không nhìn thấy mà thôi.”
Linh phách hỏi, “Vậy ngươi có thể nhìn thấy à?”
“Ừm.”
“Bao nhiêu máu?”
“… Quá nhiều.”
Quá nhiều, nhiều đến độ khó lòng kể xiết.
Nhưng dầu khó lòng kể xiết, chàng vẫn nhớ hết thảy.
Dù trí nhớ chàng không đặc biệt xuất sắc, có rất nhiều chuyện chàng chỉ liếc mắt rồi thôi chứ chẳng hề bận tâm đ ến. Song, chàng tuyệt đối nhỡ rõ từng người mất mạng dưới lưỡi kiếm mình, từng gương mặt, từng lần khép mắt, từng lần cảm nhận sinh mệnh mong manh đang dần chậm nhịp bên dưới lưỡi kiếm. Họ lặng im, và chót cùng quay về với sự tĩnh lặng vĩnh hằng. Chàng nhớ rõ hết thảy.
Sự yên ắng của cái chết khác hơn hẳn tất cả mọi loại yên ắng trên cõi đời. Nơi đó hết thảy sôi động đều bất giác im bặt, nơi đó con người ta bị nhấn chìm trong mù khơi vô tận, tựa như không còn một ai khác tồn tại trừ chính bản thân.
Bởi thế… vào những thời điểm ắng yên không người, chàng không cách nào ngủ ngon.
Nó khiến chàng nhớ về khoảnh khắc lìa đời của vô số người.
Mà hiện tại, dẫu trên đỉnh đầu văng vẳng tiếng khóc than của ngàn vạn linh phách, chàng vẫn chìm trong sự tĩnh lặng mà chỉ cái chết mới có.
Giữa nỗi cô liêu ngút trời, chàng đứng lặng bật cười.
Chàng nghe các linh phách bàn bạc hùng hồn với mình, “Hình như trên người ngươi có sương đen.”
Ô Hành Tuyết lia mắt một vòng quanh cơ thể, đáp, “Ta thấy.”
Có sương mỏng như khói đen đang lờn vờn quanh ngón tay, cánh tay, vai, và thậm chí khắp cả cơ thể chàng. Sương đen nọ khiến các linh phách hơi sợ chùng mình, nửa vì sợ hãi, nửa vì kinh tởm. Chúng thình lình nhao nhao lên lần nữa, khiến toàn bộ khu cấm địa rung động kông ngừng.
Chúng hô hỏi, “Đó là thứ gì?!”
“Đó là thứ gì?”
…
Ô Hành Tuyết lặng lẽ nhìn khói đen quấn rịt người mình, mãi một lúc lâu sau mới trả lời, “Tà ma khí.”
Đây là cảnh tượng có một không hai trên thế gian — tiên khí trong trẻo phiêu diêu và tà ma khí lượn lờ thành sợi đồng thời xuất hiện trên cùng một cơ thể… trên cơ thể của Linh Vương. Quả là một điều châm biếm đến nhược nào.
Ấy thế nhưng không sao thích hợp hơn thế nữa.
Thật là không làm sao thích hợp hơn thế nữa…
Chàng nhủ với lòng.
Trên đời còn có tà ma nào giết nhiều người hơn chàng sao… Tại sao cùng nhuộm đầy máu trên tay mà những tà ma kia sẽ bị giết cùng diệt tận, còn chàng lại yên vị trên chín tầng trời cao đặng nhìn xuống nhân gian bằng con mắt bình lặng?
Tại sao…
Chỉ vì Thiên đạo Linh đài cần có thiện có ác, có phúc có hoạ hay sao?
Thật không công bằng.
Đoạn “tại sao” ở trên in nghiêng là vì tác giả dùng một chữ “tại sao” khi Hoa Tín hỏi Ô Hành Tuyết ở chương 81 là “Linh Vương chưa bao giờ cảm thấy bất công hay sao, đã từng hỏi tại sao hay chưa?”
Ô Hành Tuyết bật cười chế nhạo, khép lại đôi mắt đỏ hửng. Đến khi mở mắt ra, chàng ngước lên nhìn hàng chục ngàn linh phách trên đầu và hỏi, “Các người muốn được giải thoát không?”
Dường như những linh phách kia nghe mà không hiểu.
Thật lâu sau, chúng mới chừng như thấu tỏ câu nói này, ngay lập tức đã ngừng khóc than giãy giụa, ngừng thét gào chất vấn.
Khoảnh khắc đó, cả cấm địa chìm trong thinh lặng.
Trong mắt linh phách nổi bừng ánh lửa sáng, chúng mở to đôi mắt nhìn Ô Hành Tuyết trân trối một hồi lâu, rồi rơi vào trạng thái hưng phấn và điên cuồng.
Muốn được giải thoát không?
Tất nhiên là muốn, muốn đến phát điên lên được!
Ô Hành Tuyết nhìn từng người một, ghi dấu từng gương mặt đã bị kéo dài đến biến dạng vào trong mắt, nhìn nét ngỡ ngàng và mững rỡ như điên, nhìn những người nọ chỉ thiếu điều muốn dập đầu hô to “cảm tạ”, gọi “thần minh hạ phàm”, nói “cảm kích tột độ”.
Ô Hành Tuyết cất giọng thật nhẹ nhàng, “Được, vậy ta tiễn đưa các người.”
***
Người đời kể lại rằng, vào đầu tháng ba năm ấy, phố núi Lạc Hoa vừa mở chưa bao lâu thì ngọn núi nổi lửa. Sự vụ xảy đến quá đột ngột khiến không một ai kịp trở tay.
Truyền thuyết nói rằng ngọn lửa ấy mãnh liệt hừng hực, sáng rỡ bừng bừng, cháy suốt mười hai dặm núi.
Truyền thuyết còn nói có người nghe được tiếng khóc và tiếng thét từ trong rừng lửa, mang trong mình sự tức giận, không cam lòng và thù hận chẳng biết hướng về ai.
Bởi vậy, người đời sau đoán rằng việc này do Thiên đạo giáng hình, gọi nó là thiên hoả.
Thật ra không phải như thế.
Ngọn lửa năm ấy do chính tay Linh Vương châm lên.
Chàng sinh ra từ nơi ấy, đem lòng mến yêu nơi ấy, và cuối cùng… tự tay thiêu rụi nơi ấy.
Ô Hành Tuyết vẫn còn nhớ rõ cảnh tượng đó cho đến mãi về sau —
Ánh lửa ngút trời lan từ cấm địa tràn ra ngoài, uốn lượn theo đường núi cùng mười hai dặm đèn lồ ng.
Lạ thay, chàng đã luôn tưởng rằng mười hai dặm dài lắm, đặc biệt là với người phàm. Nếu tản bộ sẽ mất rất nhiều thời gian, có khi tốn cả một đêm còn chưa đến được điểm cuối.
Mà một khi lửa bừng cháy đã phủ trọn chỉ trong loáng mắt.
Chỉ một loáng mắt thôi, mà biết bao sôi động, sáng tươi làm người lưu luyến không đành rời gót đã chìm hết trong biển lửa bất tận.
Chàng nhìn đám lửa bao bọc dòng người nói cười vui vẻ, nhìn da thịt họ co rúm quắt queo. Đến tận giờ phút này mà họ cũng không khóc lóc rên la, thậm chí trước khi da thịt co rúm, họ vẫn giữ nguyên nét cười trên môi.
Những nụ cười ấy nhắc nhở chàng hết lần này đến lần khác: Đây toàn là những bộ xác rỗng, họ đã không còn từ lâu, hết thảy những lời mày tấm tắc ngợi ca đều là giả dối.
Những tiếng khóc than và phẫn hận trong lời đồn của người đời đến từ linh phách bị trói buộc của họ.
Chúng nó đứng rất gần Ô Hành Tuyết, bởi thế mà Ô Hành Tuyết gần như trơ mắt nhìn gương mặt mừng rỡ chuyển sang hoang mang, rồi hoá thành oán hận.
Chúng nó giãy giụa trong đám lửa cao ngất, không ngừng tru thét và chửi rủa rền trời.
Chúng trợn trừng hai mắt, nhìn chòng chọc Ô Hành Tuyết bên kia ánh lửa, gào lên, “Không phải ngươi nói giải thoát chúng ta sao? Không phải ngươi trả lại tự do cho chúng ta sao? Không phải… chúng ta sẽ sống lại sao?”
Linh phách đã trở nên mê man sau thời gian dài bị trói tại nơi này, chúng đã không còn sáng suốt nữa. Chúng tưởng rằng được giải thoát là được trở về thân thể, là được tự do sống tiếp một lần nữa. Nhưng nào có phải, chúng đã tách lìa thân thể mình lâu, lâu lắm rồi. Giờ chúng đã… không còn sống nữa.
Người chết không thể sống lại, đây là chân lý mà người đời đều biết.
Giải thoát cho chúng chỉ mang ý nghĩa giải thoát khỏi trói buộc này, để cát bụi trở về với cát bụi, để chúng đi đến một lần chuyển dịch luân hồi.
Nhưng không một ai ưa thích thời điểm phải rời đi cả. Nên chúng sẽ không cam lòng, sẽ phẫn uất, sẽ oán hận, sẽ đớn đau…
Chúng quay cuồng, gào thét đến chói tai giữa ngọn lửa ngất trời, trút hết tất cả không cam lòng, phẫn uất, oán hận, đớn đau lên cái người đã nói sẽ “giúp bọn họ giải thoát”.
Còn người kia vẫn một mực không hề nhúc nhích, thậm chí không hề chớp mắt mà chỉ đơn giản đứng giữa ngọn lửa do chính mình châm lên, và đưa mắt nhìn chúng trong thinh lặng.
Chúng nó kêu gào không hề câu nệ, “Ngươi lừa bọn ta!”
Ô Hành Tuyết không giải thích.
Người chết dưới tay chàng nhiều vô số, không thể giải thích cho từng cái chết một. Mà những người đã khuất kia cũng sẽ không nguôi oán hận chỉ với một lời giải thích.
Mỗi một người mất mạng dưới tay chàng hẳn đều hận chàng lắm, chẳng một ai ngoại lệ. Thế thì, có thêm một người hay bớt một người cũng thế mà thôi. Thêm vài ngàn hay bớt vài ngàn cũng thế mà thôi.
Chúng nó tiếp tục gào lên, “Ngươi sẽ chết không toàn thây —”
Ô Hành Tuyết cười.
Cười đoạn, chàng khép mắt lại, trả lời, “Được.”
Chàng nghe thấy những linh phách kia rít lên đến chói tai, rồi lại tiếp tục rên gào “Ta khó chịu quá”, gào “Ta sẽ nhớ kỹ ngươi, ta sẽ nhớ kỹ ngươi…”, gào “Ngươi là đồ ma đầu”.
Để có thể giải thoát cho những linh phách này không thể chỉ dùng lửa bình thường, mà buộc Linh Vương phải hoà một phần linh phách mình vào đấy.
Thành thử, những linh phách nọ bị đốt bao lâu thì chính chàng cũng bị đốt bấy lâu. Những linh phách kia phải đau đớn thế nào trong lúc hấp hối thì chính chàng cũng đau đớn từng ấy.
Thế nhưng, chàng vẫn đứng thẳng mình, tựa như một thân cây lẻ loi giữa đồng hoang.
Chàng chịu đựng rét buốt và đau đớn đan xen, ngẩng đầu nhìn ngọn lửa xuyên trời thấu đất như đang nhìn xuyên mây đen mù mịt, hướng về Thiên đạo Linh đài chẳng biết ở nơi đâu.
Chàng mấp máy môi, cất giọng khàn khàn, “Ngươi thấy không, đây chính là cái chết của phàm nhân.”
Lời tác giả:
Còn một chương nữa nha.
Cá:
Ùi em vừa edit mà em vừa đay nghiến á mọi người, nỡ nào… nỡ nào làm vậy…
Ba Trăm Năm Không Gặp Thượng Tiên
Ô Hành Tuyết không tránh né cũng không cản lại mà đứng yên đón nhận sự tấn công của chúng.
Thoáng chốc, những linh phách kia cũng sững sờ. Chúng mở to đôi mắt giăng kín tơ máu trong mê man, nhìn cái người đơn độc đứng giữa cánh đồng hoang cấm địa.
Lạ kỳ thay, chúng có thể cảm nhận được cơn giận bừng bừng trào dâng lẫn… xót thương khôn xiết từ phía người kia.
Có lẽ cơn giận mãnh liệt đi kèm áp lực nặng nề khiến chúng hơi hoảng sợ. Hoặc cũng có lẽ lòng trắc ẩn kia dạt dào như như biển rộng, nên đã đưa chúng vào một khoảng lặng.
Vẽ nên một bức tranh quái dị tột cùng —
Hàng ngàn hàng vạn linh phách với dáng vẻ đáng sợ đang vươn dài cơ thể, ngón tay quắp thành móng nhọn, nhưng ngừng bặt ngay trước cơ thể Ô Hành Tuyết khi chỉ cách chàng gang tấc.
Một linh phách trong chúng nhìn chàng chằm chặp hồi lâu, thắc mắc, “Lạ quá, hình như ta đã từng gặp ngươi…”
Ô Hành Tuyết nhìn gương mặt dài ngoẵng của người nọ, hồi lâu sau mới khẽ khàng đáp, “Ừm, đã từng gặp.”
Cách cổng vào phố núi Lạc Hoa không xa lắm có một quán trà, trước quán có một vị tiên sinh gõ thước kể những câu chuyện trong rõ thực hư ở trong sách. Trong quán có một cậu tiểu nhị lanh mồm, khách nhân nào ghé tiệm đều được cậu niềm nở chào hỏi một lúc lâu, người ta thường trêu rằng cậu chàng nồng nhiệt quá mức.
Một lần nào đó, Ô Hành Tuyết chém quá nhiều dòng rối loạn, không muốn trở về Tiên đô nên bèn đến phố núi Lạc Hoa. Khi ấy chàng ghé vào bàn cạnh cửa ở ở quán trà ngồi nghỉ ngơi giây lát. Cái cậu tiểu nhị nhanh mồm trong quán vắt khăn trên vai đến châm nước cho chàng, ném sang một cái nhìn thô kệch rồi không khỏi thốt lên, “Nhìn mặt công tử có hơi rầu rĩ, công tử gặp phải chuyện buồn lòng à?”
Nghe vậy, Ô Hành Tuyết thoáng sửng sốt, không câu nệ cái miệng thô kệch của cậu, trả lời, “Ta đang cười đây cơ mà, cậu nhìn sao lại thấy ta có chuyện buồn lòng?”
Tiểu nhị quán trọ không trả lời, cậu vừa lau cái bàn bên cạnh vừa nói, “Sau này nếu gặp phải chuyện buồn lòng, công tử cứ đến quán tôi. Nơi này cái gì thì thiếu chứ rộn rã có thừa, tôi giúp ngài bớt chút muộn phiền.”
Cậu tiểu nhị nâng cao ấm trà, vẽ dòng nước thành một đường cong dài. Cậu ta vừa tự hào ngắm nghía tay nghề của mình, vừa nói, “Đến đây uống một bình trà, nghe đôi ba mẩu chuyện thì chuyện buồn lòng gì cũng không còn nữa. Vừa rồi ông chủ có dặn hôm nay miễn phí tiền trà cho ngài.”
Cậu ta cười hì hì, nói, “Đất trời bao la, khách hàng là thượng đế. Ngài cứ ngồi đây đến khi nào vui lên hãy đi.”
Ô Hành Tuyết hãy còn nhớ rõ gương mặt cười hì hì của cậu, gương mặt đó hiện giờ bị kéo thòng xuống, phải nhìn kỹ lắm mới có thể loáng thoáng nhận ra.
Cái người trước đây đến giúp chàng mua vui lâu thật lâu, giờ đang khóc ròng đến sưng húp hai mắt, trông không giống người cũng không ra quỷ, nỉ non mà rằng, “Chúng ta khó chịu quá…”
“Ngươi biết không? Chúng ta khó chịu quá…”
“Ngươi có hiểu được không…”
“Cảm giác sống không bằng chết.”
“Đúng là sống không bằng chết.”
…
Ô Hành Tuyết chỉ lẳng lặng mà nghe, từng lời từng chữ rót vào tai chàng.
Thiên đạo vô hình cũng vô tình, chẳng màng sống chết hay khổ nạn của bất kỳ một ai trên đời. Nhưng Linh Vương thì khác…
Nếu phải trách, chỉ trách chàng đã hoá thành người, có đôi tai và một quả tim để có thể nghe thấy những lời khóc than hay mắng mỏ, có thể hiểu hết từng cụm “sống không bằng chết và “ta khó chịu quá” không ngừng lặp đi lặp lại trong miệng những linh phách kia.
Khi cảm giác trái ngang và thương xót dâng trào đến đỉnh, nó đã bùng nổ thành phẫn nộ.
Và khi phẫn nộ đạt đến đỉnh điểm thì chỉ còn lại tiếng cười.
Rốt cuộc thì Linh Vương cũng không phải con người.
Chàng không khóc, và chưa từng khóc. Suốt dòng đời dằng dẵng này, chàng chỉ biết cười.
Sương đen nồng nặc quá, khói mù đậm đặc quá. Chàng không thiết ngước nhìn trời cao, bèn cụp mắt xuống.
Chàng nghe những linh phách nọ hỏi, “Tại sao ngươi lại cười?”
Chàng nhểnh khoé miệng, “… Vì thật nực cười.”
Chàng lại nghe những linh phách nọ hỏi tiếp, “Vậy tại sao ngươi nhìn tay mình làm gì?”
Chàng đang nhìn ngón tay mình kết băng hoá thành màu trắng đầy lạnh lẽo, nói, “Ta đang nhìn… trên tay này dính bao nhiêu máu.”
Linh phách nói, “Có máu à? Tay ngươi rất sạch mà.”
Chàng lại bật cười, đôi ngươi giấu bên dưới bóng đen của hàng mi dày, chẳng lộ nổi một tia sáng. Chàng nói, “Các người không nhìn thấy mà thôi.”
Linh phách hỏi, “Vậy ngươi có thể nhìn thấy à?”
“Ừm.”
“Bao nhiêu máu?”
“… Quá nhiều.”
Quá nhiều, nhiều đến độ khó lòng kể xiết.
Nhưng dầu khó lòng kể xiết, chàng vẫn nhớ hết thảy.
Dù trí nhớ chàng không đặc biệt xuất sắc, có rất nhiều chuyện chàng chỉ liếc mắt rồi thôi chứ chẳng hề bận tâm đ ến. Song, chàng tuyệt đối nhỡ rõ từng người mất mạng dưới lưỡi kiếm mình, từng gương mặt, từng lần khép mắt, từng lần cảm nhận sinh mệnh mong manh đang dần chậm nhịp bên dưới lưỡi kiếm. Họ lặng im, và chót cùng quay về với sự tĩnh lặng vĩnh hằng. Chàng nhớ rõ hết thảy.
Sự yên ắng của cái chết khác hơn hẳn tất cả mọi loại yên ắng trên cõi đời. Nơi đó hết thảy sôi động đều bất giác im bặt, nơi đó con người ta bị nhấn chìm trong mù khơi vô tận, tựa như không còn một ai khác tồn tại trừ chính bản thân.
Bởi thế… vào những thời điểm ắng yên không người, chàng không cách nào ngủ ngon.
Nó khiến chàng nhớ về khoảnh khắc lìa đời của vô số người.
Mà hiện tại, dẫu trên đỉnh đầu văng vẳng tiếng khóc than của ngàn vạn linh phách, chàng vẫn chìm trong sự tĩnh lặng mà chỉ cái chết mới có.
Giữa nỗi cô liêu ngút trời, chàng đứng lặng bật cười.
Chàng nghe các linh phách bàn bạc hùng hồn với mình, “Hình như trên người ngươi có sương đen.”
Ô Hành Tuyết lia mắt một vòng quanh cơ thể, đáp, “Ta thấy.”
Có sương mỏng như khói đen đang lờn vờn quanh ngón tay, cánh tay, vai, và thậm chí khắp cả cơ thể chàng. Sương đen nọ khiến các linh phách hơi sợ chùng mình, nửa vì sợ hãi, nửa vì kinh tởm. Chúng thình lình nhao nhao lên lần nữa, khiến toàn bộ khu cấm địa rung động kông ngừng.
Chúng hô hỏi, “Đó là thứ gì?!”
“Đó là thứ gì?”
…
Ô Hành Tuyết lặng lẽ nhìn khói đen quấn rịt người mình, mãi một lúc lâu sau mới trả lời, “Tà ma khí.”
Đây là cảnh tượng có một không hai trên thế gian — tiên khí trong trẻo phiêu diêu và tà ma khí lượn lờ thành sợi đồng thời xuất hiện trên cùng một cơ thể… trên cơ thể của Linh Vương. Quả là một điều châm biếm đến nhược nào.
Ấy thế nhưng không sao thích hợp hơn thế nữa.
Thật là không làm sao thích hợp hơn thế nữa…
Chàng nhủ với lòng.
Trên đời còn có tà ma nào giết nhiều người hơn chàng sao… Tại sao cùng nhuộm đầy máu trên tay mà những tà ma kia sẽ bị giết cùng diệt tận, còn chàng lại yên vị trên chín tầng trời cao đặng nhìn xuống nhân gian bằng con mắt bình lặng?
Tại sao…
Chỉ vì Thiên đạo Linh đài cần có thiện có ác, có phúc có hoạ hay sao?
Thật không công bằng.
Đoạn “tại sao” ở trên in nghiêng là vì tác giả dùng một chữ “tại sao” khi Hoa Tín hỏi Ô Hành Tuyết ở chương 81 là “Linh Vương chưa bao giờ cảm thấy bất công hay sao, đã từng hỏi tại sao hay chưa?”
Ô Hành Tuyết bật cười chế nhạo, khép lại đôi mắt đỏ hửng. Đến khi mở mắt ra, chàng ngước lên nhìn hàng chục ngàn linh phách trên đầu và hỏi, “Các người muốn được giải thoát không?”
Dường như những linh phách kia nghe mà không hiểu.
Thật lâu sau, chúng mới chừng như thấu tỏ câu nói này, ngay lập tức đã ngừng khóc than giãy giụa, ngừng thét gào chất vấn.
Khoảnh khắc đó, cả cấm địa chìm trong thinh lặng.
Trong mắt linh phách nổi bừng ánh lửa sáng, chúng mở to đôi mắt nhìn Ô Hành Tuyết trân trối một hồi lâu, rồi rơi vào trạng thái hưng phấn và điên cuồng.
Muốn được giải thoát không?
Tất nhiên là muốn, muốn đến phát điên lên được!
Ô Hành Tuyết nhìn từng người một, ghi dấu từng gương mặt đã bị kéo dài đến biến dạng vào trong mắt, nhìn nét ngỡ ngàng và mững rỡ như điên, nhìn những người nọ chỉ thiếu điều muốn dập đầu hô to “cảm tạ”, gọi “thần minh hạ phàm”, nói “cảm kích tột độ”.
Ô Hành Tuyết cất giọng thật nhẹ nhàng, “Được, vậy ta tiễn đưa các người.”
***
Người đời kể lại rằng, vào đầu tháng ba năm ấy, phố núi Lạc Hoa vừa mở chưa bao lâu thì ngọn núi nổi lửa. Sự vụ xảy đến quá đột ngột khiến không một ai kịp trở tay.
Truyền thuyết nói rằng ngọn lửa ấy mãnh liệt hừng hực, sáng rỡ bừng bừng, cháy suốt mười hai dặm núi.
Truyền thuyết còn nói có người nghe được tiếng khóc và tiếng thét từ trong rừng lửa, mang trong mình sự tức giận, không cam lòng và thù hận chẳng biết hướng về ai.
Bởi vậy, người đời sau đoán rằng việc này do Thiên đạo giáng hình, gọi nó là thiên hoả.
Thật ra không phải như thế.
Ngọn lửa năm ấy do chính tay Linh Vương châm lên.
Chàng sinh ra từ nơi ấy, đem lòng mến yêu nơi ấy, và cuối cùng… tự tay thiêu rụi nơi ấy.
Ô Hành Tuyết vẫn còn nhớ rõ cảnh tượng đó cho đến mãi về sau —
Ánh lửa ngút trời lan từ cấm địa tràn ra ngoài, uốn lượn theo đường núi cùng mười hai dặm đèn lồ ng.
Lạ thay, chàng đã luôn tưởng rằng mười hai dặm dài lắm, đặc biệt là với người phàm. Nếu tản bộ sẽ mất rất nhiều thời gian, có khi tốn cả một đêm còn chưa đến được điểm cuối.
Mà một khi lửa bừng cháy đã phủ trọn chỉ trong loáng mắt.
Chỉ một loáng mắt thôi, mà biết bao sôi động, sáng tươi làm người lưu luyến không đành rời gót đã chìm hết trong biển lửa bất tận.
Chàng nhìn đám lửa bao bọc dòng người nói cười vui vẻ, nhìn da thịt họ co rúm quắt queo. Đến tận giờ phút này mà họ cũng không khóc lóc rên la, thậm chí trước khi da thịt co rúm, họ vẫn giữ nguyên nét cười trên môi.
Những nụ cười ấy nhắc nhở chàng hết lần này đến lần khác: Đây toàn là những bộ xác rỗng, họ đã không còn từ lâu, hết thảy những lời mày tấm tắc ngợi ca đều là giả dối.
Những tiếng khóc than và phẫn hận trong lời đồn của người đời đến từ linh phách bị trói buộc của họ.
Chúng nó đứng rất gần Ô Hành Tuyết, bởi thế mà Ô Hành Tuyết gần như trơ mắt nhìn gương mặt mừng rỡ chuyển sang hoang mang, rồi hoá thành oán hận.
Chúng nó giãy giụa trong đám lửa cao ngất, không ngừng tru thét và chửi rủa rền trời.
Chúng trợn trừng hai mắt, nhìn chòng chọc Ô Hành Tuyết bên kia ánh lửa, gào lên, “Không phải ngươi nói giải thoát chúng ta sao? Không phải ngươi trả lại tự do cho chúng ta sao? Không phải… chúng ta sẽ sống lại sao?”
Linh phách đã trở nên mê man sau thời gian dài bị trói tại nơi này, chúng đã không còn sáng suốt nữa. Chúng tưởng rằng được giải thoát là được trở về thân thể, là được tự do sống tiếp một lần nữa. Nhưng nào có phải, chúng đã tách lìa thân thể mình lâu, lâu lắm rồi. Giờ chúng đã… không còn sống nữa.
Người chết không thể sống lại, đây là chân lý mà người đời đều biết.
Giải thoát cho chúng chỉ mang ý nghĩa giải thoát khỏi trói buộc này, để cát bụi trở về với cát bụi, để chúng đi đến một lần chuyển dịch luân hồi.
Nhưng không một ai ưa thích thời điểm phải rời đi cả. Nên chúng sẽ không cam lòng, sẽ phẫn uất, sẽ oán hận, sẽ đớn đau…
Chúng quay cuồng, gào thét đến chói tai giữa ngọn lửa ngất trời, trút hết tất cả không cam lòng, phẫn uất, oán hận, đớn đau lên cái người đã nói sẽ “giúp bọn họ giải thoát”.
Còn người kia vẫn một mực không hề nhúc nhích, thậm chí không hề chớp mắt mà chỉ đơn giản đứng giữa ngọn lửa do chính mình châm lên, và đưa mắt nhìn chúng trong thinh lặng.
Chúng nó kêu gào không hề câu nệ, “Ngươi lừa bọn ta!”
Ô Hành Tuyết không giải thích.
Người chết dưới tay chàng nhiều vô số, không thể giải thích cho từng cái chết một. Mà những người đã khuất kia cũng sẽ không nguôi oán hận chỉ với một lời giải thích.
Mỗi một người mất mạng dưới tay chàng hẳn đều hận chàng lắm, chẳng một ai ngoại lệ. Thế thì, có thêm một người hay bớt một người cũng thế mà thôi. Thêm vài ngàn hay bớt vài ngàn cũng thế mà thôi.
Chúng nó tiếp tục gào lên, “Ngươi sẽ chết không toàn thây —”
Ô Hành Tuyết cười.
Cười đoạn, chàng khép mắt lại, trả lời, “Được.”
Chàng nghe thấy những linh phách kia rít lên đến chói tai, rồi lại tiếp tục rên gào “Ta khó chịu quá”, gào “Ta sẽ nhớ kỹ ngươi, ta sẽ nhớ kỹ ngươi…”, gào “Ngươi là đồ ma đầu”.
Để có thể giải thoát cho những linh phách này không thể chỉ dùng lửa bình thường, mà buộc Linh Vương phải hoà một phần linh phách mình vào đấy.
Thành thử, những linh phách nọ bị đốt bao lâu thì chính chàng cũng bị đốt bấy lâu. Những linh phách kia phải đau đớn thế nào trong lúc hấp hối thì chính chàng cũng đau đớn từng ấy.
Thế nhưng, chàng vẫn đứng thẳng mình, tựa như một thân cây lẻ loi giữa đồng hoang.
Chàng chịu đựng rét buốt và đau đớn đan xen, ngẩng đầu nhìn ngọn lửa xuyên trời thấu đất như đang nhìn xuyên mây đen mù mịt, hướng về Thiên đạo Linh đài chẳng biết ở nơi đâu.
Chàng mấp máy môi, cất giọng khàn khàn, “Ngươi thấy không, đây chính là cái chết của phàm nhân.”
Lời tác giả:
Còn một chương nữa nha.
Cá:
Ùi em vừa edit mà em vừa đay nghiến á mọi người, nỡ nào… nỡ nào làm vậy…
Ba Trăm Năm Không Gặp Thượng Tiên
Đánh giá:
Truyện Ba Trăm Năm Không Gặp Thượng Tiên
Story
Chương 84: Sơn hoả
10.0/10 từ 42 lượt.