Ba Trăm Năm Không Gặp Thượng Tiên

Chương 21: 21: Gò Mộ (Mộ phần)

343@-



Chọn trúng quỷ xui xẻo Ô Hành Tuyết đúng là "tiên sứ" Triệu Thanh Lai bọn họ tìm được đầu tiên.

Triệu Thanh Lai giấu móng tay dài nhọn bên dưới ống tay áo, sắc như lưỡi dao, cào lên vách đá dễ dàng tạo ra một khe rãnh.

Hắn chọn Ô Hành Tuyết chính là bởi vì đối phương có vẻ cao quý lại mảnh mai, tay không tấc sắt, vừa thấy chính là loại công tử ca chỉ chơi trăng thưởng gió.

Công tử ca cả cái khăn dày chắn gió cũng không bọc, chỉ ôm noãn lô sưởi tay, cổ lại trưng ra như vậy.

Hắn chỉ cần nhẹ nhàng rạch một đường trên cổ kia, máu nóng lập tức phun trào! !

Không cần tốn nhiều sức, tất cả đều thành công!
Triệu Thanh Lai li3m răng, nhìn về bên gáy kia, vỗ tay chính mình một cái ––––
Keng!
Khi thanh âm kia vang lên, Triệu Thanh Lai không phản ứng lại.

Quá chết người, phản ứng luôn chậm hơn.

Đến lục hắn kịp ý thức được đó là tiếng kiếm xuất vỏ –––––
Cái tay muốn rạch cổ Ô Hành Tuyết đã không còn.

Dưới kiếm ý cuồng loạn, hàng ngàn mũi nhọn mở ra như tránh được rét đậm cũng không thể tránh được gió lạnh, lướt qua thân thể Triệu Thanh Lai.

Chiếc áo khoác dày của hắn bị chia năm xẻ bảy, sức lực chống đỡ thân thể cũng đột nhiên không còn.

Hai tròng mắt Triệu Thanh Lai bùng phát hung bạo, đột ngột giương mắt.

Ô Hành Tuyết đã không còn bóng dáng, lúc này chắn trước mặt hắn là một người khác.

Lại thấy người nọ cực cao, trường kiếm không nhẹ không nặng chống trên mặt đất, vịn chuôi kiếm rũ mắt nhìn hắn, lạnh lùng nói: "Tới."



Lai tới không nổi.


Trong nháy mắt, Triệu Thanh Lai đổ mình trên đất, thét lên một tiếng đầy thô bạo rồi dần sang bén nhọn, như một tiếng rít dài vang vọng khắp hầm mộ, nhuốm đầy cảm giác không cam tâm.


Mà không chỉ có Triệu Thanh Lai.


Ba tên bổ nhào về phía đệ tử tiên môn cũng bị kiếm ý bay sang cắt sạch lớp áo bọc.


Các đệ tử tiên môn đâm kiếm ra phía ngoài nhưng không đâm trúng thứ gì. Họ trơ mắt nhìn những người vừa mới hung bạo bừng bừng, giờ thình lình đổ ập xuống thành một đống bùi nhùi.


Khi bị “triệu hoán” vào thung lũng Đại Bi, cơ thể họ đã bị cắt thành nhiều mảnh, mang theo oán hận âm tà sâu sắc, sát khí ngợp trời, ai cũng hẳn là một hung vật đáng sợ.


Song khi họ té vùi tan tác trên mặt đất, thi thể cứng đờ và ngả màu trắng xanh với nhiều vệt lốm đốm khắp người. Họ xoay đầu mấy vòng, mắt hoen đỏ mà long lên sòng sọc…


Mọi người đều không nỡ nhìn.


Bởi đáo cùng thì họ đều từng là người sống cơ mà.


Mấy đệ tử tiên môn còn trẻ tuổi nên hiện rõ cảm xúc ra ngoài nhất, ba người trắng bệch mặt và lùi mấy bước về phía sau, thanh kiếm trên tay muốn xuất chiêu cũng không được mà không xuất chiêu cũng không được. Cuối cùng, họ bất lực nhìn sang Tiêu Phục Huyên.


Y Ngô Sinh là tứ đường trưởng lão của nhà họ Hoa nên gặp qua nhiều tình huống tương tự, đâm ra không bước lùi ra sau. Nhưng với bản tâm của người hành y, hắn vẫn không đành lòng nhìn, bèn theo bản năng cũng ngoái sang phía Tiêu Phục Huyên.


Ở nhân gian không có nhiều lời tương truyền về vị Thượng tiên này, nói cho cùng những người dính líu đến y đều là những kẻ chí tà chí ác. Y không bàn phúc hoạ, mặc kệ cát hung, bỏ mặc tất cả ước nguyện của mọi nhà, và cũng không bảo vệ bất cứ điều gì.





Tranh vẽ y rất hiếm, tượng thần cũng chẳng mấy bức, đa phần đều đặt ở cánh đồng Gia Minh nơi người thường không ai dám bén mảng.


Những vị tiên khác như các tiên nhân thuộc Linh đài đều có tranh vẽ và tượng thần đượm ý cười, mang gió xuân thổi tràn thế gian.


Chỉ mỗi tượng thần của riêng mình y, dù khắc ra giống thật hay không vẫn chung một nét lạnh lùng vĩnh cửu, chẳng có lấy một điểm nụ cười.


Thế nên khó trách vì sao chúng bá tánh không chuộng thờ phụng vị này. Thoạt trông, hết thảy tụ tán ly hợp và sinh tử buồn vui của người thường đều không cách nào lung lay ánh mắt y dù chỉ đôi chút.


Chẳng hạn như lúc này đây, khi y rủ mắt, ánh mắt buông xuống phía trên cao từ khe mắt dài và lướt qua những cánh tay cẳng chân, những mái đầu tàn tạ, nhìn đến bằng nào cũng không mảy may khép lại, trên mặt không vỏn vẹn một luồng xúc cảm.


Y nhìn qua rồi cũng chỉ hơi nhướn nhẹ hàng mi mỏng.


Tiếng rít gào của nhóm Triệu Thanh Lai càng thê lương đến cùng cực, nó vọng trong hầm mộ để lại âm vang thoáng nét bi thương.


Mà Tiêu Phục Huyên hoàn toàn ngó lơ tiếng vọng ấy, y thu kiếm ý về và tra kiếm vào vỏ.


Trong giây phút đó, hết thảy mọi người có mặt trong ngôi mộ đều thấy nao nao. 


Cảm giác nao nao không bắt nguồn từ thích hay ghét, mà chỉ vì phong thái quá nhọn quá bén, đó là dáng vẻ nghiêm nghị lạnh căm khiến mọi người không thoải mái.


Cảm giác như một thanh gươm đã chém giết quá nhiều thứ thì cho dù có lau sạch vết máu, giấu vào trong lớp vỏ bọc ngọc ngà và ngâm mình dưới vầng trăng cô lẻ sáng ngời ấm áp, thì nó vẫn là một thứ binh khí hung tàn không ai dám chạm đến.


Chỉ riêng Ô Hành Tuyết không thấy vậy.





Chàng vẫn luôn tựa tay vào lưng Tiêu Phục Huyên, khi Triệu Thanh Lai và những người kia ngã xuống đất khiến đầu và tứ chi họ lăn lông lốc các nơi, chàng cảm thấy Tiêu Phục Huyên hơi nghiêng người.


Động tác ấy cỏn con lắm, thoáng đến độ Ô Hành Tuyết còn chưa kịp ngỡ ra.


Mãi đến khi tầm nhìn của chàng bị chắn hoàn toàn khỏi những cánh tay cẳng chân gãy lìa kia và không nhìn thấy những đôi mắt trợn trừng không nhắm đó, thì chàng mới vỡ lẽ rằng Tiêu Phục Huyên đang chắn trước mặt mình để giúp mình không phải nhìn những gì diễn ra trên mặt đất.


Điều này quá hiếm hoi.


Sao lại có người cản lại tầm mắt của một ma đầu giết người không chớp mắt cơ chứ.


Sau khi bị ngăn trước mặt, Ô Hành Tuyết mới dần dà cảm thụ được, mình đúng thật không muốn thấy những điều đó.


Có lẽ giấc mơ dằng dẵng ở Thước Đô đã thay đổi bản tính chàng. Giờ đây nhìn thấy những tàn tích của chân tay và đầu họ khiến lòng chàng khó chịu vô cùng, giống hệt như việc chàng không nhịn nổi bị dính máu trên tay sau khi gi3t chết lũ vật tính âm kia vậy.


Ô Hành Tuyết lặng người một chốc, ngón tay tựa trên người Tiêu Phục Huyên khẽ động.


“Tiêu Phục Huyên.”


“Ừm,” Tiêu Phục Huyên thấp giọng đáp lời.


Ô Hành Tuyết nghiêng người ra trước tính nói, song đã thấy Tiêu Phục Huyên không chờ chàng bước tới mà ngoảnh đầu lại.


Khoảnh khắc đó, hai người đứng như kề sát nhau, hơi thở gần gũi ngay trước chóp mũi.


Ô Hành Tuyết mím môi, sau một lát thì đứng thẳng người dậy.


Tiêu Phục Huyên trầm giọng nói, “Gọi ta có việc gì?”





Ô Hành Tuyết: “Không có gì, ta tính nói gì đó mà quên mất rồi.”


Tiêu Phục Huyên nhướn mắt, ép hàng mi thành một nếp cung sắc sảo từ đuôi mắt mỏng.


Ô Hành Tuyết nhìn y và nhỏ nhẹ, “Vậy… xin đa tạ Thượng tiên?”


“…”


Ninh Hoài Sam và Phương Trữ nghe được câu tạ ơn mà thấy muốn chết quách cho xong.


***


Những khúc tay chân gãy lìa la liệt trên đất không hề nằm yên mà vẫn luôn tranh nhau vồ vập, ngón tay sắc nhọn cào trên đất vang lên những tiếng kẽo kẹt liên hồi, tưởng chừng chúng đang muốn bấu lấy nhau mà chống thẳng dậy.


Đệ tử tiên môn nghe tiếng mà sởn hết cả tóc gáy, xoa tay sau cổ rồi mò mẫm khắp người.


“Túi càn khôn của đệ đâu rồi? Sư huynh ơi, huynh có cầm theo không? Nếu không đem những, những thứ…”


Tròng mắt nhóm Cao Nga, Triệu Thanh Lai vẫn còn đảo điên chưa dứt, nhìn mọi người chòng chọc, miệng khép mở không ngừng như đang nói gì đó. Trước cảnh tượng như vậy, các đệ tử trẻ không tài nào thốt lên được hai tiếng “hung vật”.


“Cho tất cả bọn họ vào túi sao?! Không thể để họ rời rạc như vậy được, hay là chúng ta dùng phù dán lại?”


“Nhưng dán lại bằng cách nào? Ta không đem theo nhiều phù đến vậy!”


Người tiều phu lúc nãy dù gì cũng còn tương đối nguyên vẹn, chỉ cần dán một tấm phù để đề phòng anh ta không đột ngột dựng xác dậy gây rối mà thôi. Còn khung cảnh trước mắt hiện tại là một mớ hỗn loạn, tứ chi vung vãi khắp nơi, cho dù muốn dán phù cũng không biết nên dán vào phần nào.


Cậu để tử khó khăn lắm mới lấy được túi càn khôn ra, ngồi xổm người xuống tính thử dán xem thì bị một cánh tay đứt lìa trong đám đó đột ngột nắm lấy.






“A!!!”


Cậu nhảy dựng người lên, rút kiếm ra vừa tính chém đứt cánh tay kia rơi xuống thì nghe thấy một âm thanh vô cùng nức nở, “Xin người, tiểu sư phụ ơi, tôi xin người…”


Cậu đệ tử trẻ khóc không ra nước mắt, suýt nữa đã cầu ngược lại cô gái, “Cầu cầu cái gì, cô cô cô bỏ tay ra trước đi đã.”


Móng tay sắc nhọn cấu vào da thịt cậu, siết chặt không thôi. “Cầu người, tiểu sư phụ ơi, tôi không thể ở lại đây được, tôi không ở lại đây được, tôi thật sự có hai người con gái, tôi thật sự có mà…”


Cô gái khàn giọng rồi nức nở bật khóc.


Nghe vậy, mọi người mới phát hiện người nói chuyện là Cao Nga.


“Tôi không thể ở lại đây, tôi cần tìm ai đó đến thay tôi, tôi cần phải về nhà…”


“Tôi phải về nhà, tôi cần phải về nhà.”


Cơ thể cô bắt đầu dịch chuyển một cách khó khăn, một cánh tay khác nhanh chóng bò trên mặt đất và nắm lấy chân một người gần đó.


Người bị cô nắm lấy chân không phải đệ tử tiên môn nào, mà là Ninh Hoài Sam.


“Này, cô…” Trong lòng Y Ngô Sinh vừa tính ngăn cản.


Ninh Hoài Sam xụ nét mặt, trên gương mặt hiện lên vẻ hung tàn. Dù gì, cậu cũng khét tiếng trong Chiếu Dạ thành, từng bò mình khỏi biển thây núi xác, làm gì còn mấy nhân tính như các đệ tử tiên môn.


Cậu ta nhanh chóng khom người hạ gối ngồi xuống, li3m răng nanh và bật cười còn khiếp đảm hơn hung vật. “Ngươi xui xẻo cầu sai người rồi, nè bà cô này, đừng thấy ta nhỏ con mà tưởng ta dễ ăn hiếp, tính tình ta không được dễ dãi lắm đâu, ngươi mà dám gây thương tích trên mắt cá chân ta, thì ta sẽ…”


“Xin người, xin người tiểu ca ơi, hai đứa con gái nhỏ của tôi còn đang chờ tôi mà, chúng nó còn nhỏ lắm.”





“Chồng tôi đã mất rồi, nếu tôi cũng không còn thì chúng không đường nào sống nổi.”


“Các con tôi thật sự không chịu nổi trần gian này, hai đứa còn quá nhỏ, tôi xin người…”


Cao Nga siết chặt mắt cá chân cậu và nói.


Y Ngô Sinh bước tới tính cản một tay thì thấy móng tay dài nhọn của Cao Nga đã xuyên rách da dưới mắt cá chân Ninh Hoài Sam, máu tươi đổ trượt theo rãnh xương cậu chảy xuống dưới.


Ngón tay cậu cong lên, gân xanh lồ lộ rõ ràng dưới làn da mỏng dính.


Uy áp nặng nề đến vậy, nhưng cậu không hề bóp nát cánh tay không màng sống chết kia. Chẳng rõ vì sao, cậu đã ngừng tay nửa chừng, rồi cứ thế mà nghe lời bộc bạch của Cao Nga.


“Tôi chỉ còn mỗi hai đứa con này, hai chúng nó là mạng sống của tôi đó, cầu xin người.”


“Cầu ta thì có ích lợi gì đâu hả cô ơi?” Ninh Hoài Sam bất chợt nói, vẫn với giọng điệu ngả ngớn khiêu khích người khác. “Cô đã chết rồi, không về nhà được nữa. Hai đứa con cô cũng đã tận số không còn sống nổi đâu. Những tình cảnh như cô ta từng gặp, gặp rất nhiều lần…”


Cậu cất giọng nhẹ tênh, “Mẹ ta trước đây cũng van nài người khác như vậy đấy, nhưng có tác dụng gì không? Không hề.”


Y Ngô Sinh bước đến vừa khéo nghe được câu ấy, ngạc nhiên vô cùng.


Ninh Hoài Sam đang ngồi xổm nên không ai thấy được vẻ mặt cậu khi đó ra sao, chỉ có thể nhìn ngón tay như móng vuốt và đỉnh đầu cậu ta.


Y Ngô Sinh bất giác nhớ đến thời điểm lần đầu gặp ma đầu này mấy chục năm về trước. Khi đó cậu ta mới mười ba mười bốn tuổi, người teo tóp như cây sậy, bộ dáng đánh bừa một phát thôi cũng chết, chỉ riêng đôi mắt sáng ngời để lộ hung ý kiên cường.


Lúc ấy, hắn đã nhủ thầm: Không biết nhà ai mà để con cái mình lầm đường lạc lối.





Mà giờ qua mấy chục năm nhìn lại, tiểu ma đầu nọ đã không còn gầy gòm đến thế, song vẫn không tránh khỏi vẻ ốm tong. Khi cậu ta ngồi xổm trông dáng người nhỏ xíu, mặc dù sát ý ngợp thân nhưng rề rà mãi không xuống tay.


Chắc rằng Cao Nga đã khiến cậu nhớ về giây phút ban đầu lầm lỡ.


“Có tác dụng, có tác dụng, có cách…” Cao Nga vẫn chai lì khóc lóc không buông.


“Hừ, cách gì hả? Có cách mà cô còn tan xương nát thịt như vậy à? Cô nhìn mình xem, suốt ngày tôn thờ những tượng thần kia. Rồi bây giờ khóc lóc thở than đến vậy thì có thần tiên nào hiểu thấu không?” Ninh Hoài Sam nói. “Đã vậy cô chọn sao còn chọn trúng ta, để ta nói cho cô nghe một chân lý, một là tìm cách tồn tại, hai là chết đi, chớ van nài chớ khóc lóc, chấp nhận…”


Chữ “số phận” còn chưa thành tiếng, cậu đã bị đá một phát từ sau lưng.


Đá không nặng, bởi không nặng nên càng khiến cậu bực mình!


Ninh Hoài Sam quay ngoắt ra sau trong vẻ mặt đằng đằng sát khí, và đối diện với thành chủ nhà cậu.


Ninh Hoài Sam: “…”


Chuyện qué gì nữa vậy!


“Bớt nói nhiều dong dài đi. Xoè cái tay nửa buổi mà cũng không thấy ngươi làm gì, tránh ra,” Ô Hành Tuyết dùng chân gạt cậu mấy cái.


Ninh Hoài Sam: “…”


“Không thoát được mà, tại cô ta bám chân ta ăn vạ đây chứ đâu.” Ninh Hoài Sam cất giọng có hơi uất ức, đoạn tránh người ra nhưng chân vẫn yên chỗ cũ để cho thành chủ nhà cậu nhìn xem.


Ô Hành Tuyết nhìn cánh tay bén nhọn bị chặt gãy nọ. “Cô vừa nói là có tác dụng, ắt không phải nói bừa vô cớ, nói ta nghe một chút có cách là có cách thế nào?”


Cao Nga tức thì gào lên, “Tìm người thay tôi! Chỉ cần có người đến thay tôi là được!”





Có vẻ cô đang vui mừng tột độ, giọng nói vỡ oà, “Chỉ cần có người đến thay tôi là tôi có thể quay về.”


Ô Hành Tuyết hỏi, “Ồ, cô đoan chắc thế à? Có ai nói cô hay cách này hay sao?”


Mấy đệ tử tiên môn đều ngỡ ngàng, lòng nhủ thầm đúng vậy. Không phải ai cũng biết đến phù sinh linh, đa phần người bình thường bị nhốt vào trong trận rồi hoá thành hung vật gây rối đều bắt nguồn từ bản tính — họ đói bụng nên phải đi tìm thức ăn.


Còn giả như bản năng muốn tìm người đến chết thay mình thì cũng chỉ nên lang thang trong thung lũng và chờ người ta xui rủi bước vào.


Thế nhưng mấy người này lại rất đặc thù, họ còn biết giả dạng, biết ra khỏi thung lũng để tìm người, thậm chí họ biết được mùi nhang có thể át đi mùi âm thi khí trên cơ thể, để người khác không phát giác được họ đã trở thành hung vật.


Đây quả thật không giống bản năng mù mịt của hung vật mà có vẻ đã được ai đó chỉ điểm cho.


Cao Nga: “Có! Có, có…”


Cô không phản ứng mau lẹ bằng người sống, nên chỉ lặp đi lặp lại hoài một vài câu.


Mọi người liền hỏi, “Ai?”


Cao Nga nhẹ nhàng nói, “Thần tiên, là thần tiên đã cho tôi hay.”


Thần tiên?


Ô Hành Tuyết nhớ đến lời Tiêu Phục Huyên, nói rằng trên Tiên Đô có rất nhiều vị thần tiên không thọ mệnh, những người kia cũng tương tự Vân Hãi, những bức tượng thần của họ về sau cũng được giữ ở nơi này, chẳng khác nào một ngôi mộ tiên rộng lớn.


Vậy nên, câu trả lời của Cao Nga cũng không quá bất ngờ.


Có điều, những người còn lại không nghe được lời Tiêu Phục Huyên nên tỏ ra khó hiểu, “Tại sao thần tiên lại nói cho cô, và làm sao cô biết đó là thần tiên thật? Cô từng thấy tận mắt sao?”





“Không phải, không phải,” Cao Nga nói. “Là nhờ báo mộng, thần tiên báo mộng cho tôi hay.”



Đám bọn họ đua nhau mà nói liên tục, nhờ vậy mọi người cũng hiểu được đại khái—


Mấy người này bị triệu hoán đến thung lũng Đại Bi theo phương thức gần giống mộng du, họ tự phanh thây mình thành từng mảnh nhỏ, rồi tự nhét mình vào bên trong những pho tượng nam đồng và nữ đồng rỗng này.


Khi những việc này xảy đến, bản thân họ cũng không có ý thức mà chỉ tưởng rằng mình đang ở trong một giấc mơ lạ kỳ.


Trong mơ, họ đến một toà miếu tiên và ngồi xếp bằng ở hai bên bệ thờ, tay ôm lư hương, giống hệt như những vị tiên sứ thực thụ.


Rồi họ theo gót những tiên sứ khác mà niệm kinh tụng kinh, sau bất chợt thấy một bóng hình cao cao bước vào phòng và nói với họ rằng: Các vị đây trần duyên chưa đoạn, còn nhiều âu lo, tạm thời không thể trở thành tiên sứ. Phải làm phiền các vị mời người khác đến giúp.


Đến khi tìm được người đến thay thế là họ có thể quay trở về.


Họ choàng tỉnh lại và phát hiện mình bị nhốt bên trong những pho tượng nam đồng và nữ đồng.


Ngay khoảnh khắc đó, họ sợ hãi tột độ, một nỗi sợ đến chết cũng khó phai.


“Vị thần tiên kia trông như thế nào?” Y Ngô Sinh hỏi.


Đến đây, nhóm Cao Nga không cách nào nói được gì, giống như đã bị người nào niêm phong miệng hoặc hạ cấm chế.


Mà hễ là cấm chế càng khiến mọi người tò mò hơn.


Có điều họ dò hỏi một hồi cũng không nắm rõ được nguyên do nên đành từ bỏ, trái lại hỏi thêm, “Người đó có từng nói cần các người tìm người như thế nào đến thế không?”





Theo lẽ thông thường, nếu mấy bá tánh này muốn tìm người đến thay thì nên tìm người già trẻ con hoặc goá bụa ở những vùng hẻo lánh thì có phải đơn giản hơn không. Theo lời thần tiên nọ nói, tìm người “trần duyên đã kết thúc” thôi chứ tội gì phải liều mạng đi đến tiên môn?


“Có, người nọ có nói mọi việc trong miếu đã chuẩn bị xong xuôi, thế nhưng bốn hướng đông tây nam bắc còn thiếu một chút tiên khí.”


Họ cũng đoán được tiên khí hẳn là ám chỉ người trong tiên môn. Thế nhưng hạng bình dân áo vải như họ thì nào dám tìm những đại đệ tử hay danh nhân lợi hại nào, sau khi nghĩ ngợi mấy phen, họ mới quyết định chọn những đệ tử trẻ mới nhập môn chưa được bao lâu này.


Mà xem ra, vận may của họ cũng không đến nỗi nào, vừa mới mấy hôm gần đây có chuyện xảy ra nên nhiều người đến cửa tiên môn cầu giúp đỡ, dẫn đến hành động của họ cũng không quá bất ngờ.


Thêm nữa, Thương Lang Bắc Vực đã sụp đổ, những nhân vật cấp cao trong các tiên môn phụ cận đều còn ở ngoài chưa về đến, hoặc chỉ vừa về đến nên không có thời gian nhúng tay vào việc này. Nhờ vậy, họ mới hốt được ba tay đệ tử trẻ.


Đệ tử tiên môn cau có bảo, “Thế chẳng phải còn thiếu một người à?”


Cao Nga có phần do dự, nói, “Lừa được bao nhiêu người thì lừa bấy nhiêu người, nếu thiếu… thì chờ cơ hội lần sau.”


“…”


Nhóm đệ tử trẻ càng ngẫm nghĩ càng thấy kinh hãi, mặt mũi ai nấy đều tái mét.


Nét mặt Y Ngô Sinh cũng có đôi phần phức tạp. Hắn liếc sang Ô Hành Tuyết một cái rồi quay về Triệu Thanh Lai và nói, “Vậy tại sao cậu lại chọn người kia… chọn Trình công tử vậy?”


Nếu đã bảo cần tìm người có tiên khí thì ngoại trừ ba đệ tử trẻ ở đây, còn có hai người có thể chọn. Một người là Tiêu Phục Huyên, người còn lại chính là Y Ngô Sinh.


Cho dù Tiêu Phục Huyên thoạt trông có vẻ không dễ tiếp cận, thì vẫn còn hắn đây cơ mà, hiện tại hắn chỉ còn một chút tàn hồn, nếu phải lâm trận thật thì có khi còn yếu hơn ba đệ tử trẻ kia không chừng.





Thế mà cách chọn người của Triệu Thanh Lai cũng thật có cá tính, bỏ lơ qua hắn mà chọn trúng ma đầu kia.


Vốn Y Ngô Sinh chỉ thắc mắc một câu như lời than thở, ngờ đâu Triệu Thanh Lai lại lầm bầm trả lời, “Trong những người có tiên khí thì y có vẻ dễ đối phó nhất.”


Y Ngô Sinh: “…”


Trong những người cái gì???


Khoảnh khắc đó, Y Ngô Sinh cảm thấy một là mình bị điếc, còn không là Triệu Thanh Lai bị mù.


***


Nhóm Cao Nga vừa nói vậy thì mọi người cũng đã hiểu ra.


Thảo nào dù đã thu thập đủ ba mươi ba pho tượng “nam đồng” “nữ đồng” mà toàn bộ hầm mộ trông quá yên tĩnh, chẳng có vẻ gì là sắp mở trận. Hoá ra vì không đúng người nên bốn vị trí đông tây nam bắc còn thiếu bốn người có tiên khí.


“Nói vậy, chẳng lẽ phù sinh linh kia có hiệu quả thật sao? Có thể hồi sinh tượng thần thật sao?” đệ tử trẻ tiên môn nhìn sang Y Ngô Sinh. “Bằng không vị thần tiên nọ đang có ý định gì?”


“Chuyện này…” Y Ngô Sinh cũng không cách nào trả lời được.


“Vô ích thôi,” giọng Tiêu Phục Huyên bất chợt vang lên.


Ô Hành Tuyết quay đầu sang nhìn thì thấy y kẹp tấm phù sinh linh dán trên những pho tượng nam đồng nữ đồng giữa hai ngón tay mình và nói, “Loại phù này ít gặp ở nhân gian, nhưng trên Tiên Đô đâu đâu cũng có.”


Ý chỉ vô cùng rõ ràng, vị thần tiên nào trên Tiên Đô sẽ chọn loại đồ chơi này để hồi sinh chính mình?


“Vậy có khi nào là do người trong dân gian không hiểu nên mới làm như vậy?” nhóm đệ tử trẻ suy đoán.





Tiêu Phục Huyên mấp máy môi, song chưa kịp nói gì thì nhóm đệ tử trẻ đã lắc đầu nguầy nguậy và tự phủ nhận, “Không không không, không thể nào, làm gì có thường dân thiếu hiểu biết nào ở dân gian mò đến chỗ tà môn như thung lũng Đại Bi để lập trận cơ chứ, có mà điên à.”


“Nói vậy tại sao phù sinh linh này dán ở đây?”


“Đúng rồi, lá phù này chỉ gỡ nhẹ đã rơi ra, mấy pho tượng nam đồng nữ đồng kia cũng vỡ không ít…”


Bọn họ lẩm ba lẩm bẩm.


Nhắc đến vỡ, Ô Hành Tuyết thấy Tiêu Phục Huyên hơi chau mày lại, xong quét mũi kiếm vào mấy mảnh vỡ trên mặt đất ra một chút.


Ô Hành Tuyết nhìn theo, thấy trên pho nữ đồng đóng giả Cao Nga bám đầy vết xước và vệt máu. Chàng nhìn vệt máu một hồi, chợt thấy có điểm không đúng.


Sau khi Cao Nga và những người kia hoá hung vật, sở hữu móng tay bén nhọn như đao kiếm, có thể chém sắt như chém bùn, quét qua vách đá để lại đầy rẫy vết nứt, thế nhưng tại sao không thể cứa vỡ những pho tượng nam đồng nữ đồng này mà chỉ cào bới loạn xạ ở mặt trong?


Hơn nữa, những bá tánh này gặp nạn cũng mới gần đây, nhưng mấy pho đồng tử đồng nữa này không khá cũ, có vẻ như đã chút tuổi rồi, nói không chừng còn lâu đời không thua gì tượng thần trong ngôi mộ này.


Vậy trước khi dùng để dán phù sinh linh vào những bá tánh, rốt cuộc mấy pho nam đồng nữ đồng này đã làm gì bên trong hầm mộ?


Mũi kiếm Tiêu Phục Huyên bất chợt khảy lên, một mảnh tượng nhỏ nảy vào trong tay y.


Ô Hành Tuyết thoáng nhìn theo, thấy bên dưới những vết cào cấu rướm đầy máu trên mặt mảnh vỡ dường như có một dấu ấn nho nhỏ, song nó đã bị huỷ hoại gần như hoàn toàn nên không còn nhìn rõ nữa. 


“Đây là?” Ô Hành Tuyết hỏi một câu.


“Không nhìn rõ,” Tiêu Phục Huyên dừng đoạn. “Khả năng cao là ấn thờ.”





“Ấn thờ?” Ô Hành Tuyết dĩ nhiên chưa từng nghe nói đến, bèn hỏi tiếp, “Dùng để làm gì?”


Tiêu Phục Huyên: “Để thu thập hương khói thờ phụng.”


Ô Hành Tuyết cười. “Thượng tiên ơi, huynh nhìn xem ta nghe có hiểu gì không?”


Tiêu Phục Huyên: “…”


Người này hiếm khi chịu giải thích cặn kẽ tỉ mỉ những vấn đề nhỏ nhặt không đáng kể này với người khác, song dưới ánh nhìn và nụ cười của Ô Hành Tuyết, y im lặng một chốc rồi tiếp tục nói, “Vốn dĩ, chúng tiên trên Tiên Đô muốn nhận được hương khói thờ phụng từ các tiên miếu dưới nhân gian, cần phải để ấn thờ trên các pho tượng thần.”



Ô Hành Tuyết nhớ đến lời y kể về Vân Hãi trước đây rằng cuối cùng, vì không nhận được hương khói nữa nên Vân Hãi đã bị phế tiên vị, đẩy ngược về nhân gian.


“Nếu vậy, hương khói thờ phụng với tất cả thần tiên cũng tương tự như thức ăn với bá tánh à. Nếu không có thì không thể sống được?” Ô Hành Tuyết nói.


Tiêu Phục Huyên chỉnh lại lời chàng, “Gần như tất cả.”


Ô Hành Tuyết: “Có ngoại lệ ư?”


Tiêu Phục Huyên: “Ừm.”


Ô Hành Tuyết: “Ví dụ như?”


Tiêu Phục Huyên: “… Ta.”


Ô Hành Tuyết “À” nhẹ một tiếng, thầm nghĩ cũng không khó hiểu. Vị này được triệu hoán thành tiên, không nằm dưới sự quản lý của Linh đài Thập nhị tiên. Hơn nữa còn chưởng về hình xá nên không có liên hệ gì với bá tánh dưới nhân gian, là ngoại lệ cũng là bình thường.


Chàng không hỏi thêm nhiều về điều đó, chỉ nói tiếp, “Dấu ấn thờ bên trên những pho tượng đồng tử đồng nữa này dùng để làm gì? Hầm mộ này nằm sâu bên dưới lòng đất, không có ai đến cúng tế, thì có thể thu nhận hương khói của ai?”





Ô Hành Tuyết nói xong, chợt nhớ đến số đèn trường minh yên ắng thắp sáng đầy vách đá ngoài kia, bỗng cảm thấy có lẽ người đã đào hầm mộ này trước đây không thả pho tượng nam đồng nữ đồng xuống với mục đích thu nhận hương khói gì cả. Nó chỉ đơn thuần đóng vai trò người bầu bạn kề bên, thầm lặng và yên ả như những ngọn đèn trường minh kia.


Bên trong quần áo rách nát của nhóm Cao Nga còn một ít nhang cúng nguyên vẹn, Ô Hành Tuyết cúi người rút ra ba cây nhang, lấy một ngọn đèn dầu bên trên vách đá rồi châm đầu nhang vào ngọn lửa, thắp bên cạnh đống vụn đổ nát kia một chốc.


Thì thấy làn khói mong manh nọ chợt tan về một hướng nào dó.


“Khói này bay đi đâu đấy?” Đệ tử tiên môn nhìn về phía này, vươn tay phủi phủi một chốc và nói. “Hiện tại trong hang đâu có gió.”


“Chẳng lẽ nó đang chỉ hướng?”


Mọi người nhìn nhau, rồi lập tức nối bước đi theo hướng làn khói.


Suốt dọc đường, họ tìm thấy không biết bao nhiêu hang rỗng, tìm đến gần hai mươi pho tượng nam đồng tử và nữ đồng, bên trong pho tượng ấy đều có chứa thảm trạng thi thể của ai đó. Tất cả pho tượng đều bị trầy xước do người bên trong cào cấu, thế nên khi mở ra thấy đầy những vệt máu chằng chịt, trông vô cùng hỗn loạn.


Ở mỗi pho tượng, Tiêu Phục Huyên nhặt một mảnh vỡ, trên mỗi mảnh đều có dấu ấn thờ bị rạch nát nằm bên dưới vệt máu.


***


Đi một hồi chẳng biết bao lâu, Y Ngô Sinh mới thì thầm một câu, “Không chừng chúng ta đến chót cùng của thung lũng Đại Bi…?”


Hắn còn chưa nói hết câu, cả nhóm đã rẽ sang một nhánh theo hướng lan của khói, trước mắt họ hiện ra một mái vòm hầm rộng lớn. Y Ngô Sinh thảng thốt không nói nên lời…


Vì bên trong mái vòm hầm chất đầy tượng thần cao ngất.





Tiếng bàn tán của mấy đệ tử tiên môn thốt nhiên im bặt, họ hít sâu một hơi. Trước đây, họ từng vào những miếu tiên thông thường rồi, tượng thần trong đấy không cao đến vậy. Trước cổng vào một vài thành trấn hoặc bến cảng cũng có dựng tượng thần, cao thì có cao nhưng số lượng không nhiều thế này.


Đa số tượng thần ở nơi ấy được đẽo trên thân gỗ hoặc trụ đá, nên đây cũng là lần đầu tiên họ nhìn thấy tượng thần khổng lồ đặt san sát nhau như trước mắt. Khung cảnh này tạo ra một áp lực vô hình nhưng rất nặng nề, khiến bọn họ ai nấy im bặt, thậm chí còn không dám nhìn thẳng.


Thế nhưng họ vẫn không kiềm được lòng mà dò xem.


“Những bức tượng thần này đều lạ lẫm… giống như bức tượng đầu tiên bên ngoài hầm mộ vậy,” đệ tử tiên môn tỏ vẻ kinh hãi. “Trước giờ tôi chưa từng nhìn thấy nhiều tượng thần xa lạ như vầy trong cùng một chỗ.”


“Thưa tiền bối, còn ngài có biết vị nào trong đây không ạ?”


Y Ngô Sinh lắc đầu, ngẩng mặt lên nhìn, sau khi đảo một vòng qua từng pho tượng một hồi lâu thì đáp lời, “Ta không biết một ai cả.”


Ninh Hoài Sam và Phương Trữ bước vào trong này liền thấy có thể ói liền tù tì ba đời ba kiếp. Mặt mũi hai người tái me tái mét, cổ họng nhộn nhạo một phen, rồi chợt nghe thấy thành chủ nhà mình cất giọng hỏi, “Trong đây mà các ngươi cũng buồn nôn à?”


Ninh Hoài Sam ép chặt miệng, ráng nuốt cảm giác trào ngược như sóng dữ trong cổ họng xuống, một lúc lâu sau mới nói, “Chúng ta không nên ói sao ạ?”


Phương Trữ khoác tay lên vai Ninh Hoài Sam, cúi gằm lưng xuống. Sau khi vất vả cả buổi, hắn trợn trừng trắng dã cả mắt, mới quay sang hỏi Ô Hành Tuyết, “Thưa thành chủ… lúc trước ta đã muốn hỏi ngài, tại sao ngài không có phản ứng gì với tượng thần cả vậy?”


Vừa nói xong hắn lại muốn oẹ ra, nhưng sợ vô lễ với thành chủ bèn vội vã chôn mặt mình trên vai Ninh Hoài Sam.


Và bị Ninh Hoài Sam cảnh cáo, “Mày mà dám ói lên người tao thì tao đếch có tha mạng cho mày đâu, thề đấy.”





Ngược lại, Ô Hành Tuyết cực kỳ bình tĩnh, “Ta nào có biết vì sao không có phản ứng.”


Ninh Hoài Sam nhìn chàng với gương mặt xanh mét, hồi sau mới “Ực” một tiếng và tự nhủ trong lòng, đúng vậy, thành chủ không nhớ gì cả, chắc là đã quên luôn lý do rồi, oẹ…


Đệch.


Hai người họ nhịn không nổi nữa, thả tay xuống rồi lăn ngược về phía sau.


Để lại một Ô Hành Tuyết đứng thắc mắc mãi.


Chàng tò mò quay sang hỏi Tiêu Phục Huyên, “Trước đây huynh từng nói trong hầm mộ không chỉ có mỗi mình Vân Hãi là thần tiên không thọ mệnh, phỏng chừng những vị thần trên mấy bức tượng trong này đều như vậy à?”


Tiêu Phục Huyên nhìn vào mấy bức tượng thần kia. Gương mặt y không mấy ngạc nhiên mà chỉ đơn thuần lướt mắt một vòng không ngừng. Cứ như… y biết rõ có những ai ở nơi này, nhưng vẫn đang tìm một thứ gì đó.


Đến khi nhìn hết một vòng rồi, y thu tầm mắt về và bình tĩnh trả lời, “Ừm, đúng vậy.”


Thật kỳ lạ.


Ô Hành Tuyết nói thầm trong lòng, nếu những người này đều bị giáng xuống nhân gian giống như Vân Hãi, vậy họ đã không còn là tiên từ lâu.


Nếu đã không còn là tiên, lại còn bị người đời quên lãng, vậy lẽ ra những bức tượng đá này không nên có bất kỳ tác động nào lên hai tiểu ma đầu Ninh Hoài Sam và Phương Trữ.


Bởi trước đây lúc nhìn thấy bức tượng thần của Vân Hãi, họ cũng đâu có phản ứng nghiêm trọng nào.


Chàng tính nói gì đó thì nghe tiếng hô thất thanh của một đệ tử trẻ, “Trên bệ thờ này có chữ viết.”


Ô Hành Tuyết thả mắt nhìn xuống, thấy phía dưới bệ đài dưới chân tượng thần có khắc chữ.





“Tang Phụng, trông coi Bất Động sơn.”


“Hoặc Ca, trông coi Tuyết Trì.”


“Mộng Cô, trông coi Kinh Quan.”



Ô Hành Tuyết lia mắt từ những bức tượng thần kề sát nhau, đọc dần chữ trên bệ thờ. Bên trên ấy khắc tên huý của từng vị thần tiên và những nơi đặt dưới sự trông coi của họ.


Trong một thoáng chốc, chàng dừng chân giữa hàng tượng thần và cảm thấy dường như những người không được thọ mệnh này cũng không hề xa lạ đến vậy.


Giống như… chàng đã từng nhìn thấy những gương mặt và dáng vẻ tươi cười này, thế nhưng về sau đã không còn gặp được nữa.


“Phía sau có ấn!” Có ai đó kêu lên.


Ô Hành Tuyết bỗng nhiên choàng tỉnh, lướt mắt nhìn qua. Sau lưng hai bức tượng thần bên cạnh chàng có dấu ấn ở vị trí đối xứng với tên huý và địa điểm trông coi ở mặt trước. Ô Hành Tuyết cúi người và lia đèn dầu để nhìn rõ một chút thì phát giác những dấu ấn nọ tương ứng với dấu ấn thờ trên các pho tượng nam đồng nữ đồng.


“Đúng là dùng để thờ phụng những bức tượng thần này,” Ô Hành Tuyết thấp giọng tự nhẩm, đoạn xoay đầu đếm qua và xác định bên dưới đây có vừa đúng ba mươi ba pho tượng thần không hơn không kém, hoàn toàn trùng khớp với số lượng nam đồng nữ đồng.



Nhưng nếu vậy thì khó lòng lý giải vì sao những bá tánh kia bị triệu hoán đến đây.


Vì sao những người kia tự nhét bản thân mình vào tượng nam đồng nữ đồng, vì sao họ lại cào xước dấu ấn thờ mặt trong tượng? Tựa như… ấn thờ đó không có tác dụng xoa dịu mà ngược lại còn khiến thứ gì đó khó chịu cáu gắt.





Trong hang vòm này không có nhiều đèn dầu, mà càng đi sâu vào trong càng u ám không nhìn rõ.


Ô Hành Tuyết thấy được lờ mờ dường như có một thứ gì đó ở phía cuối hàng tượng thần đặt san sát nhau. Nơi đó vô cùng nhạt nhoà sau những thân hình mờ ảo, chỉ nhác thấy mái vòm cong bên một góc.


Lầu các?


Dao đài?


Theo bản năng, chàng nghĩ đến những thứ mà trên Tiên Đô có thể có, có lẽ là nơi ở trước đây của những tiên nhân kia. Dầu sao trong nhân gian, người ta cũng xây những khu tương tự nhà cửa trong mộ địa.


Ô Hành Tuyết cầm đèn dầu trên tay và bước về hướng đó với ý định xem rõ rốt cuộc đấy là thứ gì. Ngờ đâu vừa nhấc chân đã bị người nắm tay kéo lại.


“Đừng bước tới.”


Tiêu Phục Huyên giữ vai chàng, giọng nói trầm thấp vang lên bên tai.


“Sao thế?”


“Có trận.”


“Trận?”


“Ừm,” Tiêu Phục Huyên nói. “Ta vừa xem xét, ba mươi ba bức tượng thần không đặt theo vị trí ngẫu nhiên mà xếp thành một thế trận.”


Vừa dứt lời, tiếng thét thảm thương đột ngột dội lên trong căn hầm tròn, “Aaaaaaa —”


Tiếng thét nghẹn ngào nghe vào bi thiết, xen lẫn cả giọng nam giọng nữ, đó là tiếng của nhóm người Cao Nga.


Khi tập trung nhìn kỹ hơn, Ô Hành Tuyết trông thấy những cánh tay cẳng chân đứt gãy của họ nhanh chóng bò về bóng đêm trước mắt như thể bị hấp dẫn bởi thứ gì đó, vừa bò vừa la hét thất thanh. Trong phút chốc, mùi máu tanh bủa ra khắp nơi.





Ô Hành Tuyết gần như thấy những tia máu bắn phụt về phía mình.


Cổ tay chàng vẫn đang bị nắm chặt nên chỉ có thể khép mắt và nghiêng đầu đi. Thế rồi chàng chợt thấy bờ vai nhẹ vẫng, bàn tay mảnh khảnh nhưng rộng của Tiêu Phục Huyên đang chắn khẽ trước chóp mũi chàng và chặn lại tia máu bắn tung toé.


Tiêu Phục Huyên rút tay về, rũ những giọt máu kia xuống một cách lạnh lùng, rồi ném một ngọn đèn dầu vào trong màn đen kia.


Trong giây lát, tiếng lửa nổ “bùm” bừng lên sáng rực màn đen, lưỡi lửa trắng hơi ngả xanh cao vút lên không như sắp chạm đến đỉnh.


Nhóm Cao Nga bị lửa thiêu đốt nên thét lên rồi choàng tỉnh, ràn rạt lùi về chứ không chui vào mảnh đen ngòm kia nữa.


Y Ngô Sinh không chút bận tâm đ ến lễ nghi, quát lớn giọng để át tiếng la hét của họ và hỏi, “Các người chạy về phía đó làm gì!”


“Tiếng gọi.”


“Tôi lại nghe thấy tiếng gọi của thần tiên.”


Cao Nga nói.


Là vị “thần tiên” đã báo mộng cho họ, nói rằng còn thiếu tiên khí ở bốn hướng đông tây nam bắc đó sao?


Ô Hành Tuyết nheo mắt lại, nhìn về phía bên kia ngọn lửa ánh xanh. Cuối cùng khi ngọn lửa dần rơi xuống, chàng đã thấy được thứ nằm bên trong mảnh đen ngòm nọ —


Đó là một lầu các được đúc bằng đá lạnh.


Đây không phải là toà tiên miếu dùng để thờ cúng thông thường mà giống như nơi ở của một ai đó, bên trong có cả trường kỷ và một bức bình phong, phía bên ngoài là lan can bằng đá và hành lang lơ lửng, trông giống một toà dao cung trên Tiên Đô, thế nhưng dao cung này được nối liền với một bệ đài cao, trên đài khắc đầy sấm ngôn.





Dù không đọc rõ được lời sấm ấy, nhưng có thể thấy trên dao cung treo một tấm biển, trên ấy hẳn có viết chữ song vì lý do gì đó không rõ đã bị xén mất. Bây giờ tấm biển ấy chỉ còn lại một góc, phần còn lại đều rơi trên mặt đất, lờ mờ thấy được một chữ “Phong”.


… Toạ Xuân Phong?


“Toạ Xuân Phong.”


Khi ba chữ nọ bật ra trong đầu Ô Hành Tuyết, Tiêu Phục Huyên cũng cất giọng nặng nề, thật lòng không rõ ai mới là người nói trước.


“Đây là đâu thế?” Ô Hành Tuyết lặng lẽ nhìn bậc đài cao kia, sau đó chuyển mắt sang mái vòm cong cong.


Tiêu Phục Huyên lặng thinh hồi lâu mới nói, “Phế Tiên đài.”


Ô Hành Tuyết khẽ khàng “À” một tiếng.


Vậy cũng có nghĩa, những thần tiên bị phế kia đều từng đứng trên đỉnh bệ đài cao khắc đầy sấm ngôn nọ. Vì sao nơi để truất phế các vị tiên lại có tên “Toạ Xuân Phong” cơ chứ, sao mà… không đâu phụ lòng gió xuân đến vậy.


Phế Tiên đài được dựng lại ở đây mang ý nghĩa vô cùng rõ ràng là để chấn chỉnh răn đe một người nào đó.


Ô Hành Tuyết nghĩ đến căn hầm tròn có ba mươi ba bức tượng thần, so ra thì Vân Hãi cô độc ngoài kia có vẻ hơi lạc lõng.


Ninh Hoài Sam và Phương Trữ phản ứng vô cùng mạnh mẽ trước ba mươi ba bức tượng thần này, vừa nôn mửa vừa bức bối, cho thấy những bức tượng thần vẫn còn một ít tiên lực, ắt rằng lưu lại từ hương khói thờ phụng từ những nam đồng nữ đồng kia.


Song, hai người họ không có bất kỳ phản ứng gì với Vân Hãi, nói rõ Vân Hãi đã hoàn toàn bị cách tiên danh.


Trong trường hợp này, không cần nói cũng biết Phế Tiên đài đặt ở đây để chấn chỉnh răn đe ai.


Ô Hành Tuyết nhớ đến lời Tiêu Phục Huyên, nói rằng xưa kia Vân Hãi bị tà ma cắn nuốt và đã mất mạng ở thung lũng Đại Bi. Dẫn đến việc Hoa Tín mang kiếm xuống trần, tàn sát sạch sẽ tà ma bên trong thung lũng Đại Bi, sau lại dựng lên khu mộ địa này để thờ phụng tượng thần của Vân Hãi, sau nữa tiếp tục thờ phụng tượng thần của những vị khác.


Thoạt tiên, chàng có vài thắc mắc trong câu chuyện này, nếu quan hệ giữa hai người họ là thầy trò tình thâm, và Hoa Tín muốn thờ phụng ái đồ đã mất, vậy vì sao phải đặt huyệt mộ bên dưới lòng đất và không cho phàm nhân đến gần?


Bây giờ ngẫm lại… xem ra không chỉ là đơn thuần là thờ phụng.


Ánh lửa xanh rực sáng chói kia bừng bừng không ngớt, tạo thành một tấm bia chắn giữa mọi người và toà Phế Tiên đài nọ.


Bên trong ánh lửa, trông Phế Tiên đài không khác gì một nấm mồ đang nặng nề đè lên những thứ dưới hầm mộ.


Xem hiện trạng tấm biển bị đập nát kia thì ắt có người đã ra tay với ngôi mộ dưới đây.


Ngọn lửa quá chói lọi, ánh sáng toát từng luồng soi rọi cả ba mươi ba bức tượng thần khổng lồ, chiếu lên mi mắt khẽ rủ nhìn xuống của họ khiến thoạt trông cứ như đôi mắt họ đang lay động.


“Sư huynh ơi… sao đệ thấy pho tượng thần kia đang nhìn chúng ta vậy?”


“Ta cả nghĩ rồi sao? Bức tượng kia giống như đang nghiêng người xuống vậy.”


“Ánh lửa chói quá.”


Ánh sáng chiếu xuống khiến những rãnh đá bên dưới chân ba mươi ba bức tượng thần có chiều hướng lập loè, trông như đang khởi động một trận cục đã được thiết lập sẵn.


“Tiêu Phục Huyên,” Ô Hành Tuyết nghiêng đầu sang hỏi, “huynh nói tượng thần đang bày một trận cục, mục đích trận đó để làm gì?”


Tiêu Phục Huyên nhìn những đường viền lập loè sáng tối bên dưới mặt đất, nói, “Để trấn tà ma, hoặc trấn tàn hồn.”


Sau một thoáng im lặng, y nói tiếp, “Để người bên trong không bao giờ nhìn thấy ánh mặt trời được nữa.”


Lời tác giả:


Chờ lâu rồi, hôm qua là Đông chí, các bình luận trước khi đăng truyện hôm nay đều được lì xì rồi nhé~ muah muah



Ba Trăm Năm Không Gặp Thượng Tiên
Bạn có thể dùng phím mũi tên trái/phải để lùi/sang chương.
Đánh giá:
Truyện Ba Trăm Năm Không Gặp Thượng Tiên Truyện Ba Trăm Năm Không Gặp Thượng Tiên Story Chương 21: 21: Gò Mộ (Mộ phần)
10.0/10 từ 42 lượt.
loading...